Sponsored links


Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ý mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ý

 
NCTT Những chủ đề mới nhất

NCTT Những góp ý mới nhất
NCTT Website


Who is Online
 

 
 

 

Previous Page  1  2 3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 Next Page

Forum Những câu trả lời mới nhất

 apollo
 member

 REF: 286162
 01/15/2008

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Gia huấn ca là tập thơ của Nguyễn trãi ( 阮廌) gồm các bài nhiều bài như:

1. Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.(*)

Dạy Vợ Con
5. Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!(*)
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
10. Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì?(*)
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
15. Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.(*)
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm,
Con hiền cha mẹ an tâm,
20. Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.(*)
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.(*)
25. Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
30. Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
35. Hoặc khi hội hát linh đình,
Đ ược lời dạy đến thì mình hãy ra.
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đ ừng đánh đàn, đánh lũ không hay,
Nói đừng chau mặt, chau mày,
40. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.(*)
45. Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa,
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
50. Đ ừng đảo điên có nói làm không,
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai,(*)
55. Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai?(*)
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
60. Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.(*)
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
65. Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.(*)
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
70. Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
75. Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
80. Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường.
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,(*)
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
85. Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,(*)
90. Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên,(*)
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,(*)
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
95. Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.


Với Cha Mẹ
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
100. Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105. Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đ ừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110. Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115. Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,(*)
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120. Xấu trong làng nước, để cười mai sau


Với Chồng
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm,
Đ ừng đem bên ấy về gièm bên ta.
125. Sách có chữ "nhập gia vấn húy",(*)
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
130. Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
135. Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm,
140. Dần dà uốn mãi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm lòng.(*)
145. Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.


Với Vợ Lẽ
In lấy chữ tao khang chi nghị,(*)
150. Đừng mang câu đố kỵ chi thường,
Dây bìm cho tựa cành vàng,(*)
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,(*)
155. Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai?(*)
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
160. Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "Tùy" rắn khúc nghi gia,
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang
Với Bạn Hữu Của Chồng
165. Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
170. Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
175. Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!


Với Chị Em
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
180. Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
185. Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch,
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.


Với Trong Họ Ngoài Làng
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
190. Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
195. Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.


Với Những Khi Sản Dục
Ấy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,(*)
200. Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
205. Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,(*)
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh,(*)
Đứng ngồi chính đại quang minh,(*)
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vịn cao cũng đừng mang nặng,
210. Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần,
215. Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,(*)
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
220. Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Với Con Cái
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
225. Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đ ừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thuở hãy còn trứng nước,
230. Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
235. Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.(*)
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
240. Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
245. Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.


Với Dâu Rể
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,(*)
250. Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.(*)
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
255. Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!


Với Tôi Tớ
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy,
Bọt bèo là phận nô tỳ,
260. Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta,
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
265. Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi,
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.



Thờ Cúng

Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
270. Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,(*)
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
275. Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,(*)
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
280. Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô Phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
285. Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
290. Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi,
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
295. Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
300. Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.

Dạy Con Ở Cho Có Đức

Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
305. Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,(*)
310. Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315. Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,
325. Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
330. Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
335. Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
340. Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,(*)
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.(*)
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
345. Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
350. Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.(*)
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
355. Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!(*)
Thấy người mà phải lo ta,
360. Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
365. Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.

Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh

Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,(*)
370. Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
375. Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,
380. Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
385. Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
390. Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,(*)
395. Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,(*)
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.(*)
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
400. Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,(*)
405. Kính người vợ phép ở Lễ Kinh.
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
410. Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,(*)
Câu "hữu trai" nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
415. Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở,
420. Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
Siêng năng thì chăm chú việc ta.
425. Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì giã gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
430. Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đừøng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy răn: "giữ lửa chẳng chơi".
Cho hay đại phú bởi trời,(*)
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
435. Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
Bữa thường phải xem cho con ở,
440. Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
445. Trong anh em thiên tải nhất thì.(*)
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,(*)
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
Trần trần một mực nên đâu,
450. Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,(*)
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường,
Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.(*)
455. Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.(*)
Có chữ rằng: "đạo trọng thân thân",
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
460. Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
465. Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,(*)
Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
470. Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
475. Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
480. Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
485. Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
Một đôi khi chân bước ra đường,
490. Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.(*)
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
495. Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na,
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung

Dạy những kẻ đàn bà con gái,
500. Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
505. Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
510. Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
515. Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân,
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giao hối ,
520. Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
Bề anh em lại chẳng hay nhường,
525. Chua chát thay những tính cương cường.
Ai là đá ru mà chịu vậy !
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
Hổ thân tiếng khắp đông tây,
530. Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
535. Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ mạc không hay kính nể,
540. Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đ ường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
545. Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
Khen cho bà nguyệt khéo xe,
550. Anh này sánh với chị kia đương vừa.

Vợ Khuyên Chồng

Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si.
555. Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân,
560. Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.(*)
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
565. Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm,(*)
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế gian lắm kẻ điên mê,
570. Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.(*)
575. Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!

Dạy Học Trò Ở Cho Phải Đạo

Nào là những kẻ học trò,
580. Nghe lời thầy dạy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
585. Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
590. Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn.
595. Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,
600. Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
605. Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng "sinh ngã cù lao",(*)
610. Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
615. Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,
620. Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.


Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
625. Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
630. Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh .
Loạn rồi lại có khi bình,
Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
635. Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
Bể thánh sâu, cố gia công lội,
640. Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
645. Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.(*)
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
Ấy là thuở trước nam nhi,
650. Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: " loạn độc thư cao",(*)
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.(*)
655. Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
Bõ khi nghèo khổ chua cay,
660. Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
Bởi chưng có chí học hành thì nên.
665. Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương,
670. Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.(*)
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
675. Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
680. Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
685. Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu !
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
690. Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.

Khuyên Học Trò Phải Chăm Học

Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
Bước lên đường vào cửa ung dung,
695. Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,(*)
Học hành cho biết thủy chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,(*)
700. Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.(*)
705. Đọc cho đến Trung dung, Đại học,(*)
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,(*)
710. Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
715. Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,(*)
Cương thường giữ hiếu làm nên,
720. Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.(*)
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
725. Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.(*)
Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
730. Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô dẹp loạn, kinh luân mở nền.(*)
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,
Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
735. Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.(*)
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,(*)
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
Làm nên trọng chức cao quyền,
740. Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
745. Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tô sinh,(*)
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
750. Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
755. Lý Sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
Làm trai chí khí hiên ngang,(*)
760. Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,(*)
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông,
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
765. Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,(*)
Đỗ thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,(*)
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình.
Đ ường vân trình dù sau dù trước,
770. Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
775. Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.(*)
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
Thư trung Kim ngọc vô vàn,
780. Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.(*)
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đã hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,
Những người mặt ngọc là người vẻ vang.(*)
785. Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy dọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.(*)
Thư trung tuấn vũ điêu tường.(*)
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
Ai có chí đêm ngày luyện tập,
790. Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,(*)
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
795. Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.(*)



 

 apollo
 member

 REF: 283516
 01/10/2008

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
3- đi thuyền qua
4-ở giữa Thái Bình Dương là Bình chứ không phải là nước!
5- con ve sầu
7- khi không thấy con nào hết ( mà thấy có vết sâu ăn)


 

 apollo
 member

 REF: 278803
 01/01/2008

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Hi, chúc mừng năm mới 2008 đến với cả nhà!
theo tôi thì Việt Nam ta quá bảo thủ và cố chấp nên kiếm ra một vị, mà vị này chưa từng tham chiến trong chiến tranh VN ( 1954-1975) thì hơi bị khó đấy! ông TT Mỹ hy vọng một ngày nào đó những nhà nguyên thủ ở VN có bằng đại học của Hoa kỳ chiếm 70% như những nước láng giềng! Điều này theo tôi sẽ phải đến nhưng còn quá xa.
chỉ có một điều tôi cảm thấy rất buồn: ở Mỹ những nhà chính tri ở Mỹ thường là những người giầu có, họ coi thường đồng tiền và muốn có " Quyền Lực " để xây dựng đất nước của họ, còn ta thì chuyên chính vô sản làm chính tri để làm kinh tế.
20 năm qua kinh tê tư bản đã làm đất nước ta phát triển, còn nghi ngờ gì nữa mà không cho cạnh tranh chính trị đây? vì chỉ có có cạnh tranh chính trị thì những tài năng trẻ mới phát triển nhanh đươc phải không các bạn?
Chào thân ái


 

 apollo
 member

 REF: 270218
 12/16/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Tôi nghĩ Hitler có thù oán với người Do Thái lúc ông ta còn là trẻ thơ, và khi ông ta có quyền lực thì trả thù!
Người Do Thái là nhưng thương gia thành công ở Âu Châu mọi thời đại chứ không phải là "Người Do Thái có mặt đông nhất ở châu Âu. Nơi đây họ bị coi là những kẻ vô gia cư, lang bạt và bị khinh rẻ." Đâu!


 

 apollo
 member

 REF: 270214
 12/16/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Một câu hỏi lớn trong lịch sử Việt Nam đã được mọi người trong thời gian gần đây đặt ra là "Ải Nam Quan có thật sự là của Việt Nam hay của Tàu ?". Câu nói "nước Việt Nam ta kéo dài từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau" là câu nói đúng lịch sử hay là câu nói nhận vơ bậy cái Ải Quan của nước khác (Trung Hoa) rồi tự nhận xằng là của Việt Nam ta ?

Sau đây là đoạn sử quan trọng trong Việt Sử Toàn Thư (và 1 số sách khác có nói đến đoạn này) để chứng minh ẢI NAM QUAN đã từng thuộc Tổ Tiên của chúng ta. Tác giả xin trích nguyên văn : Vào ngày 21 tháng Chạp năm Giáp Thân (1284), quân Mông Cổ huy động 50 vạn binh sĩ cùng với các danh tướng như : Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha để sang xâm chiếm nước ta. Tổng chỉ huy là thái tử Thoát Hoan. Phụ tá cho Thoát Hoan là Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô.

Quân bản bộ của Thoát Hoan đến Cửa Nam Quan thì ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng A Lý mang thư qua nói : "Bản súy chỉ nhờ đường Nam Quốc qua đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ. Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong tình, bờ cõi sẽ tan hoang, lúc đó có hối cũng đã muộn". (trích nguyên văn, Việt Sử Toàn Thư, tác giả Phạm Văn Sơn, trang 183. Có thể kiểm chứng trang 183 ở ấn bản điện tử : www.vnet.org)

Qua đoạn sử trên của bộ Việt Sử Toàn Thư chúng ta thấy rất rõ là Việt Nam tổ tiên chúng ta đã từng làm chủ Ải Nam Quan. Quân Tàu muốn qua cửa thì phải viết thư xin phép tổ tiên chúng ta để mở cửa cho đi qua. Qua đoạn sử này, tác giả thấy rõ ràng câu "nước Việt Nam ta kéo dài từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau" là câu nói hoàn toàn đúng đắn về mặt lịch sử. Tức là cho tới năm 1284, dân Việt Nam ta đã làm chủ Ải Nam Quan. Đến thời Lê Lợi thì tướng giữ ải Pha Lũy (chính là Ải Nam Quan) là Trần Lựu. Nếu ải không là của Việt Nam thì cần gì phải cử 1 tướng quân để giữ cái ải này.

Thêm nữa, đại Văn Hào Nguyễn Du (vào ngày 06-04 Quí Dậu-tức 06-05-1813, và khi đi sứ về ngày 29-03 Giáp Tuất-tức là ngày 18-05-1814), khi đi sứ qua Ải Nam Quan đã cảm tác bài thơ Trấn Nam Quan trong Bắc Hành Tạp Lục. Bắc Hành Tạp Lục gồm 110 đề mục, và vì có nhiều đề mục thi sĩ Nguyễn Du sáng tác hai bài thơ, nên có tất cả 120 bài thơ chữ Nho, trong đó có hai bài Nguyễn Du viết về tâm sự của mình khi tiến qua ải Nam Quan để vào đất Trung Hoa. Đó là bài "Nam Quan đạo trung" và "Trấn Nam Quan". Riêng bài "Trấn Nam Quan" nói rõ biên giới giữa nước ta và Trung Hoa nằm ngay nơi mặt ải. Nguyên văn bài thơ như sau :

Trấn Nam Quan

"Lý Trần cựu sự yểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim).
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm..
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm."

(bản dịch của Đỗ Văn Hỷ-tr.279-sách Địa Chí Lạng Sơn) :

Lý-Trần việc cũ dấu phai mờ
Năm đã ba trăm kể đến giờ
Muôn núi ải quan nằm chính giữa
Một thành Hoa-Việt vạch đôi bờ
Trời đất mới biết ơn sao nặng
Ddất hẹp xui nên chuyện hóa ngờ
Mây biếc quay nhìn nơi cửa khuyết
Nhạc Thiều văng vẳng tiếng xa đưa

Qua bài thơ này đã chứng tỏ Trấn Nam Quan đã thuộc nhà Lý-Trần và nó có cách đó khoảng 300 năm tức là khoảng năm 1513. Tức là Trấn Nam Quan có trước thời Gia Tĩnh Triều Minh (1522-1560). Ngoài ra nó còn cho ta biết, bức tường thành chính là biên giới phân cách Việt-Trung vào thời đó.

Cuốn Việt Sử Tân Biên của sử gia Phạm Văn Sơn, tập 2, trang 393 có in lại 1 bản đồ mệnh danh là "Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ" đã có ghi rõ ràng Ải Phá Lũy (tức Ải Nam Quan) nằm ở phía Bắc-Đông Bắc của bản đồ (Bản đồ này là của ông Thái Văm Kiểm tặng cho sử gia Phạm Văn Sơn). Bản đồ này cũng đã được đăng lại trong bộ sách Việt Sử Khảo Luận của L/S Hoàng Cơ Thụy (Cuốn 1, trang 501-Nhà xuất bản Nam Á -Paris 2002-địa chỉ 44 Avenue D'Ivry 75013 Paris).
Lịch Sử Ải Nam Quan theo các thời kỳ :

Vào thế kỷ 19, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết trong Vân Đài Loại Ngữ, ở điều 81 ghi rõ : "Phía bắc nước ta giáp với Trung Quốc có 3 cửa ải :
Mạn trên có Thủy khẩu quan thuộc tỉnh Cao Bằng
Mạn giữa có Bình nhi quan thuộc huyện Thất Khê
Mạn dưới có Trấn Nam quan (có lúc gọi là ải Pha Lũy, Trâ'n Nam Giao, Mục Môn Quan, Ải Nam Quan, hay Hữu Nghị Quan) thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Ba cửa ải ấy là nơi quan hệ trọng yếu để ngăn ngừa quân địch".

Ải Nam Quan là nơi đã từng diễn ra và chứng kiến nhiều cảnh tang thương và hùng tráng trong suốt thời gian của Việt sử nghĩa là từ thời nước ta lập quốc cho tới nay.

Năm 40 Tây Lịch, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán, Nam Quan đã là cửa ngõ xâm lược của viên tướng Mã Viện. Và năm đó, Ải Nam Quan cũng đánh dấu nhiều chiến công huy-hoàng của dân-tộc Việt bất khuất như Thái thú Tô Định bị nghĩa quân của Hai Bà Trưng đánh đuổi phải bỏ chạy về Tàu qua ngả Nam Quan. Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chém đầu Hầu Nhân Bảo và đánh đuổi tàn quân nhà Tống ở cửa Nam Quan.

Đời nhà Lý, năm 1060, quân xâm lược nhà Tống lại bị chận đánh ở Nam Quan và Lạng Châu tức Lạng Sơn. Bấy giờ Châu-mục Thân Thiệu Thái từng đánh sang Châu Ung bên Trung-quốc bắt sống Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài, chưa kể sau đó là các chiến công phá Tống oanh liệt của Lý Thường Kiệt nữa.

Năm 1285, Đời nhà Trần, năm 1285 Trấn Nam Vương Thoát-Hoan phải nhục nhã chui vào ống đồng trốn chạy về Tàu qua ải Pha-Lũy tức Ải Nam Quan.

Năm 1427, Liễu Thăng bị phục binh của nghĩa quân Bình Định-Vương Lê Lợi chém chết ở Đảo Mã-Pha (Gò Té Ngựa) thuộc ải Chi-Lăng, ở về phía nam cửa Nam Quan khoảng 50 km và tàn quân Minh cũng phải theo cửa Nam Quan mà trốn chạy về nước.

Thời Lê Thánh Tông (1460 -1497), nhà vua cho tu bổ lại Đoàn Thành (Lạng Sơn), xây dựng lại các ải lớn, đặt 4 trạm dịch trên đất Lạng Sơn : Pha Lũy (Phia Lũy-theo tiếng địa phương), Mai Pha, Nhân Lý, Chi Lăng. Quy định của nhà nước là : chỉ có sứ bộ mới được đi qua ải Pha Lũy (sau này là Ải Nam Quan), còn những người bị tù tội, dân buôn bán trao đổi đều đi theo đường ải Du Thôn. Trên núi Kháo Sơn cũng có hai con đường : một cho sứ bộ, và một cho dân buôn. Nhà nước cũng quy định : các tổng quản, tuyên úy trị nhậm ở phiên lộ cách kinh thành 200 dặm, phải luôn luôn đẩy mạnh việc vũ vệ. Năm 1460, nhà vua hạ lệnh : "Những người coi giữ biên giới phải giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước ngoài". Trong bộ luật Hồng Đức, chương "Cấm Vệ" có điều "Những người bán ruộng đất, bờ cõi cho người nước ngoài thì bị xử chém". Điều 243 nêu rõ : Các tướng sĩ phòng giữ nơi quan ải nếu không phòng bị cẩn thận, dò la không đích thực để quân giặc đến bất ngờ đánh úp thì bị xử tội lưu hay tử".

Về cửa hay ải Nam Quan, theo Phương-Đình Dư địa chí của Nguyễn Văn-Siêu [bản dịch của Ngô Mạnh Nghinh, Tự Do xuất bản, Saigon, 1960], đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy [hay Pha-Dữ], ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng Sơn. Từ châu Bằng Tường [tỉnh Quảng-Tây] bên Trung-quốc muốn vào nước An Nam phải qua cửa quan này. Theo Cương-mục và Lam Sơn Thực Lục, cửa Pha Lũy chính là cửa Nam Quan ở xã Đồng Đăng thuộc huyện Văn-Uyên [xưa là Văn Châu hay Châu Văn], tỉnh Lạng-Sơn. Từ đời Lê Trung Hưng, người Tàu gọi cửa Pha Lũy là Trấn Nam Quan (Chen Nan Kuan) ; còn ta thì quen gọi là cửa hay Ải Nam Quan.
........còn nữa...
Trích từ: Bảo Toàn Đất Tổ


 

 apollo
 member

 REF: 270206
 12/16/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Lý luận như chị AK thì cứ cái gì có chữ " nam" là của Tàu hết sao? Thời đại Liên Hiệp Quốc, thế kỷ của Tự Do, Dân Chủ và Thông Tin còn có chuyện " Cá lớn nuốt cá bé " sao? Vậy là nước bé ta phải khôn và khéo thế nào để khỏi cảnh mất đất mất đảo mất nươc? Nên nhớ Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc niện nay thộc về nước Âu Lạc ngày xưa! Chứ đừng nói đến ải Nam Quan hay thác Bản Dốc!

 

 apollo
 member

 REF: 261730
 11/28/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Các bạn nên hấp hay luộc sơ khoai tây trước khi chiên!

 

 apollo
 member

 REF: 181815
 06/26/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
1,- Cục thị bò, không phải là cục thịt bò, nhưng rõ ràng là cục thịt bò là con ốc đang bò.
2,- có ba người đang đi vòng quanh.


 

 apollo
 member

 REF: 181813
 06/26/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
5,- Indo (nesia) là nước giàu nhất thế giới!

 

 apollo
 member

 REF: 177929
 06/13/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
hỏi một trong hai người rằng: nếu người anh em của anh nói căn nhà này của ai, người này ắt phải nói dối! Hi hi hi

 

 apollo
 member

 REF: 177307
 06/11/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
CAM DAI BAY là đúng rồi, anh OT chắc chưa là Hành Khách ( Khách bị hành hạ)đi xe đò du lịch và ăn cơm tù, có nghiã là khi xe dừng lại để ăn trưa thì chủ quán lấy hàng rào kem gai vây cả xe lẫn người bắt ăn tại quán đó! Ha ha ha

 

 apollo
 member

 REF: 176771
 06/09/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
1.- Bò 4 chân là lẽ đương nhiên.
2.- gặp 3 đèn như nhau? coi anh cảnh sát đứng đâu, không có cảnh sát thì coi bảng giao thông, không có bảng giao thông!... cái này ban coi chừng, bạn đang lái xe ở quôc gia nào? Đại đa số thi theo qui tắc phải trước trái, nhưng ở Mỹ thì ai tới trước người đó đi trước!
3.- lười đọc vì không có dấu....


 

 apollo
 member

 REF: 176769
 06/09/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
hỏi các bác, tại sao ông Daimler không lấy hiệu xe là Daimler mà lại lấy hiệu xe là Mercedes?

 

 apollo
 member

 REF: 175238
 06/04/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
Lòng tham của con người thật không đáy, nhưng những cái nhọt ngoài da không đáng ngại, mình chỉ sợ những cái ung nhọt bên trong và không chữa được! Ý mình nói đây là những cái sự tham nhũng có hệ thống trong một thể chế nào đó mà báo chí và nhân dân biết nhưng phải làm thinh! Đó là sự thối nát có hệ thống và từ trong xương tủy!

 

 apollo
 member

 REF: 172579
 05/29/2007

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster   edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai >> xem chủ đề
 
chắc tại nói ngọng, chó " Xanh" = cho sanh = chó đẻ?

 

     
   

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đã đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ý kiến

 
 

Nhà | Ghi danh Thành Viên | Thơ | Hình ảnh | Danh Sách | Tìm | Diễn đàn | Liên lạc | Điều lệ | Music | Advertise

Copyright © 2025 Vietnam Single & Tim ban bon phuong All rights reserved.
áfŽv‚ßêQ†ôª[»>_|7×–²»‹èÓ0Èz˜ß6kYTLñå¾Î:U¡$@«žßÜ Åq€ƒØH7a¾ØŒUšqà–«æ¶_†¼Œl¨ËˆO#3£"úO;׫Y­ÅÈ]}‰l