1
2
Xem tat ca
- Xem Tung trang

sontunghn
member
ID 59503
03/18/2010

|
Nhà thơ 'Màu tím hoa sim' qua đời

Hữu Loan - tác giả những câu thơ như "Nàng có ba người anh đi bộ đội / Những em nàng / Có em chưa biết nói / Khi tóc nàng xanh xanh" - trút hơi thở cuối cùng tối 18/3, hưởng thọ 95 tuổi.
Tang lễ nhà thơ Hữu Loan sẽ diễn ra vào lúc 15h chiều 19/3. Ông được đưa về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang xã Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa - nơi nhà thơ sinh ra và gần như gắn bó cả cuộc đời nhọc nhằn của mình ở đó. Sáng nay, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đã dẫn đầu đoàn Hội Nhà văn lên đường vào xứ Thanh tiễn đưa tác giả Màu tím hoa sim.
Đang dự Hội chợ sách tại TP HCM, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên chia sẻ cảm giác mất mát khi nghe tin Hữu Loan qua đời. Khoảng một tuần trước Tết dương lịch 2010, ông cùng một số đồng nghiệp vào Thanh Hóa thăm nhà thơ. Ông kể: "Lúc đó, sức khỏe Hữu Loan cũng đã yếu rồi. Ông ốm hơn một năm nay, cộng thêm bị cảm cúm nên gia đình tưởng nhà thơ đã không thể qua khỏi đợt đó. Tuy vậy, Hữu Loan vẫn còn nhớ, vẫn đọc được thơ, nhưng không đọc được trọn vẹn, rõ ràng bài Màu tím hoa sim nữa".
Nhà thơ Phạm Xuân Nguyên cho biết thêm, dù sống cuộc đời rất vất vả cực nhọc, Hữu Loan là người cứng cỏi, mạnh mẽ, ít ốm đau, bệnh tật. Những năm cuối đời, chân ông yếu đi nhiều, gần như bị tê liệt do di chứng của những tháng ngày thồ đá nuôi con vất vả, nhưng đầu óc, tâm trí nhà thơ vẫn rất minh mẫn.
Hữu Loan, tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi đỗ tú tài, ông sinh sống bằng nghề dạy học. Từ những năm 1940, nhà thơ tham gia cách mạng và từng làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Hòa bình lập lại, ông về Hà Nội làm biên tập viên báo Văn Nghệ, tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm... Đến năm 1958, ông về quê, sống bằng nhiều nghề như: làm ruộng, đánh cá, thồ đá... cho đến lúc qua đời.
Hữu Loan viết cả truyện và ký, nhưng ông nổi tiếng nhất ở lĩnh vực thơ ca với những tác phẩm kinh điển như Đèo cả, Màu tím hoa sim... Đặc biệt, những vần thơ khóc người vợ đầu tiên của ông - Màu tím hoa sim - đã làm xúc động trái tim độc giả từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sau khi người vợ đầu, bà Lê Đỗ Thị Ninh qua đời, nhà thơ Hữu Loan kết hôn với người vợ thứ hai, bà Phạm Thị Nhu - người đã cùng ông vượt qua mọi khó khăn, nuôi dạy 10 đứa con nên người.
Hà Linh

Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
 |
sontunghn
member
REF: 527438
03/18/2010
|

Lá thư của một LS và bài thơ 'Màu tím hoa sim'
,
Ông là anh cả của nhân vật chính trong "Màu tím hoa sim": "Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng/ Có em chưa biết nói"...
Người viết bức thư cuối cùng này là Lê Đỗ Khôi, người xã Đông Cương (Đông Sơn, Thanh Hóa). Thư gửi cho mẹ trên đường hành quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Lê Đỗ Khôi ngày ấy chưa tới 30 tuổi, đang là Chính trị viên Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165 Thành đồng Biên giới, Đại đoàn 312. Là anh cả trong một gia đình trí thức đông anh em ở tỉnh Thanh Hóa, người em tiếp theo của ông là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Người em thứ ba là Lê Đỗ An, tức Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn - Phó Ban dân vận Trung ương. Ba anh em ông có người em gái là Lê Đỗ Thị Ninh - là nhân vật chính trong bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan viết năm 1948.
Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại trường hợp hy sinh của Lê Đỗ Khôi: "Anh cả tôi từng là cán bộ chỉ huy pháo binh ở trận địa Xuân Tảo, ngoại thành Hà Nội. Tại đây, đơn vị đã cùng Pháo đài Láng nổ những phát súng đầu tiên vào thành Hà Nội mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1946. Đúng 10h sáng ngày 7/5/1954, Đại đoàn 312 chuẩn bị tiến công vào Sở chỉ huy của địch ở Mường Thanh thì bom địch dội trúng Sở chỉ huy Tiểu đoàn 115 của anh Khôi. Cả Ban chỉ huy Tiểu đoàn đã hy sinh, anh Khôi mất trước giờ toàn thắng có vài tiếng đồng hồ. Anh mất đi khi mới có người yêu hẹn ở hậu phương ngày về sẽ làm lễ thành hôn". Người yêu của anh Khôi là một cô gái ngoại thành, cháu ruột một trí thức cách mạng ở vùng Cổ Nhuế - Xuân Đỉnh. Người con gái mà anh Khôi hẹn về làm lễ thành hôn, sau tiếp quản Thủ đô, được tin người yêu đã mất, cô đau đớn buồn tủi và mãi tới 5 năm sau mới đi lấy chồng.
Còn bức thư cuối cùng của liệt sĩ Lê Đỗ Khôi đã được gia đình cất giữ vừa đúng 50 năm. Vào dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP, Trung tướng Phạm Hồng Cư mới đưa tôi xem bức thư đó, nội dung như sau: "Má con ở nhà độ này có khỏe không, chắc là má con đã già nhiều và có phần yếu vì sức khỏe của má con không được dồi dào lắm. Con nhờ ba chuyển tất cả tình nhớ yêu của con cho má, và mong má con sống khỏe đến ngày chúng con trở về đông đủ trong vinh quang của dân tộc, hạnh phúc gia đình nhà ta lại bền chặt gấp bội xưa. Mấy em con Bình, Thái, Ngọc, Xuyên chắc chúng nó lớn rồi. Con không nhận ra chúng nếu gặp buổi đầu tiên, cũng như hôm con gặp em Cát mãi mới nhận ra. Cuối cùng con kính chúc ba má lúc nào cũng khỏe, cũng hăng hái bền bỉ kháng chiến và chúng con luôn luôn cố gắng phục vụ để hoàn thành nhiệm vụ với gia đình và đất nước. 1/11/1953. Con Lê Đỗ Khôi".
Bức thư ngắn gọn xúc động với tấm lòng thành kính của một người con. Bức thư đến tay thân mẫu của liệt sĩ thì người cha thân yêu của anh cũng qua đời vào tháng 6/1954, tức là sau khi Khôi hy sinh một tháng. Một gia đình trong hai tháng có hai cái tang lớn, thật đau đớn biết bao.
Trong một buổi giao lưu mừng 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung tướng Phạm Hồng Cư (ngày ở Điện Biên, ông là Phó chính ủy Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 trấn giữ cánh đồng phía tây Điện Biên) thay mặt các cựu chiến binh Điện Biên đã phát biểu: "Trong chiến thắng Điện Biên có biết bao liệt sĩ đã nằm lại trên mảnh đất Điện Biên anh hùng. Chính người anh cả của tôi là Lê Đỗ Khôi đã nằm lại cách đây có hơn 100m, anh tôi hy sinh vào một buổi sớm trước giờ toàn thắng ở Điện Biên...". Có một điều thật xúc động là trong các tấm bia liệt sĩ ở Điện Biên thì có tới 5 người tên là Khôi quê Thanh Hóa: Hoàng Văn Khôi, Lê Văn Khôi, Trịnh Văn Khôi và 2 người tên Nguyễn Văn Khôi. Nhiều lần về Điện Biên, các em của Lê Đỗ Khôi lên viếng nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên thấy tên anh Khôi nhưng khác họ nên đã từng nghĩ rằng có thể Ban quản lý nghĩa trang ghi nhầm.
Nhưng đúng vào dịp 50 năm kỷ niệm chiến thắng Điện Biên, một người em của liệt sĩ Khôi được sự giúp đỡ tận tình của Sở LĐTBXH Lai Châu cho đọc tất cả tên các liệt sĩ đã được ghi vào sổ vàng để tìm xem vì sao tên anh mình chưa có, hay chưa đúng họ. Trung tướng Hồng Cư lại vào. Sau đó, Cục Chính sách (Tổng Cục Chính trị) đã có công văn gửi Cục quản lý chính sách người có công (Bộ LĐTBXH) để đính chính và bổ sung tên liệt sĩ Lê Đỗ Khôi. Trong dịp được đi cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP, Trung tướng Phạm Hồng Cư đã được nhìn tận mắt tên người anh ruột của mình Lê Đỗ Khôi trên tấm bia ở hàng cuối cùng, đó là danh sách bổ sung mới nhất nhân dịp Chiến thắng ĐBP.
Người mẹ của liệt sĩ Lê Đỗ Khôi mà anh đã viết trong bức thư cuối cùng là con gái của một vị khoa bảng ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Trong kháng chiến chống Pháp, cụ hoạt động trong Hội Mẹ chiến sĩ, chăm sóc động viên các cán bộ chiến sĩ ở Liên khu 4 và Thanh Hóa. Sau ngày người cha thân yêu của Lê Đỗ Khôi (là ông Lê Đỗ Kỷ, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946) qua đời thì gia đình đón thân mẫu của ông ra Hà Nội, ở khu phố Phạm Đình Hổ. Bà là một Đảng viên tích cực hoạt động trong chi bộ và tổ dân phố. Sau khi bà qua đời, nhiều tướng lĩnh, cán bộ chiến sĩ ở Liên khu 4 và Thanh Hóa thường ghé qua nhà thắp hương tưởng niệm vì một thời bà đã có công chăm sóc họ. Họ nhớ về bà như một người mẹ chiến sĩ yêu quý.
Đó là một gia đình trí thức, một gia đình kháng chiến từng bước vào bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Nhiều thế hệ sau này vẫn tìm đến bài thơ Màu tím hoa sim để nhớ về một chặng đường văn học, một chặng đường kháng chiến và một chặng đường đời. Người con gái của Màu tím hoa sim chính là vợ của Hữu Loan, ngày cô mất mới có 18 tuổi và cô là người con thứ tư trong gia đình. Cô có ba người anh và một đàn em nhỏ nên mở đầu bài thơ ta thấy Hữu Loan rất đột ngột hạ bút: "Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng/ Có em chưa biết nói/ Khi tóc nàng đang xanh/ tôi người Vệ quốc quân/ xa gia đình/ Yêu nàng như tình yêu em gái".
Rồi Hữu Loan lại viết thêm về khung cảnh người vợ nhỏ mới mất ở Thanh Hóa: "Chiều hành quân/ qua những đồi sim/ Những đồi sim dài trong chiều không hết/ Màu tím hoa sim/ tím chiều hoang biền biệt".
Nhân kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, nhớ về liệt sĩ Lê Đỗ Khôi và gia đình anh. Trên đất nước thân yêu của chúng ta có biết bao gia đình như thế.
(Nguyễn Văn Vĩnh - TP)
|
 |
sontunghn
member
REF: 527439
03/18/2010
|

Dành cho độc giả yêu bài 'Màu tím hoa sim'
,
Sau khi bài "Lá thư của một liệt sĩ và bài thơ Màu tím hoa sim" được đăng. VietNamNet đã nhận đuợc nhiều ý kiến phản hồi. Độc giả My Nga (284 Nguyễn An Ninh, Vũng Tàu) viết:
"Tôi rất xúc động khi đọc xong bài báo trên. Tôi đã từng đọc bài thơ và nghe bài hát phổ từ bài thơ này rất nhiều lần. Nhưng nguyên tác của bài thơ thì không được rõ. Hiện tôi không nhớ hết được cả bài thơ."
Để đáp lại thịnh tình của quý vị, VietNamNet xin đăng nguyên văn bài Màu tím hoa sim để My Nga cùng bạn đọc xa gần cùng thưởng thức.
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
Hữu Loan
|
 |
sontunghn
member
REF: 527440
03/18/2010
|

Độc quyền 'Màu tím hoa sim': 100 triệu đồng!
,
- Công ty Vitek VTB đã bỏ ra 100 triệu để mua độc quyền bài thơ "Màu tím hoa sim"...
Thi sĩ Hữu Loan và mối tình Màu tím hoa sim
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng;
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngợ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
Bà Lê Đỗ Thị Ninh là học trò của thi sĩ Hữu Loan, nhỏ hơn thầy 16 tuổi. Ngày xưa ấy, bà Ninh là con gái của Thanh tra canh nông xứ Đông Dương. Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn học college Đào Duy Từ (Thanh Hóa). Cha của bà Đỗ Thị Ninh ngưỡng mộ danh tiếng của cậu học trò Hữu Loan đã vời cậu vào dạy học cho các con.
Sau khi tốt nghiệp thành chung, Hữu Loan ra Hà Nội học tú tài. Trong một đợt phát động Tuần lễ vàng, Hữu Loan diễn thuyết trước đám đông. Nào ngờ, gặp lại cô học trò ngày xưa, nay đã trở thành thiếu nữ "đẹp một vẻ trong trắng, giản dị". Họ nhanh chóng thành thân với nhau vào năm 1948. Cưới xong, Hữu Loan phải tức tốc hành quân theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến sĩ.
Mấy tháng sau ngày cưới, ông nhận được tin vợ chết đuối. Nỗi đau đớn khôn nguôi đã kết thành thơ Màu tím hoa sim, khóc người vợ trẻ đẹp, sắt son nhưng vắn số.
Bản quyền bài thơ trị giá 100 triệu đồng
Nhà thơ Hữu Loan sinh ngày 2/4/1916, trong một gia đình tá điền. Không được đến trường, chỉ học tại nhà do người cha dạy dỗ. Bù lại, ông có tư chất rất thông minh. Người làng Văn Hoàn kể rằng vào khoảng năm 1938, Hữu Loan vác lều chõng ra Hà Nội đua tài. Số đỗ kỳ thi ấy thật hiếm hoi. Cùng đỗ với Hữu Loan còn có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện...
Hiện nay, ông đang sống ở Thanh Hoá, đại diện Công ty cổ phần công nghệ Việt (ViTek) đã đề nghị mua độc quyền bài thơ với một giá duy nhất: 100 triệu đồng! Ngày 19/10/2004, Cục Bản quyền tác giả đã chính thức cấp giấy chứng nhận bản quyền tác giả số 1206/2004/QTG bài thơ Màu tím hoa sim cho Vitek. Theo giấy chứng nhận bản quyền này, 50 năm sau ngày nhà thơ mất, Vitek mới hết hạn độc quyền.
VietNamNet có cuộc trao đổi với ông Lê Văn Chính - GĐ Vitek VTB về sự kiện này:
- Tại sao Vitek VTB không chọn một cuộc thi hoặc chương trình nghệ thuật nào đó để tài trợ mà lại chọn một bài thơ?
- Trước khi quyết định chọn bài thơ Màu tím hoa sim, chúng tôi đã cân nhắc rất kỹ. Mọi doanh nghiệp đều chọn cho mình một hình thức khuyếch trương thương hiệu. Có những doanh nghiệp nước ngoài chọn người đẹp, cầu thủ, danh ca... để đầu tư khoản tiền lớn nhưng chúng tôi là doanh nghiệp 100% Việt Nam, chúng tôi cần một hình ảnh đặc trưng cho riêng mình. Bài Màu tím hoa sim là một tác phẩm mà đối thủ cạnh tranh nước ngoài sẽ không có được và có giá trị vĩnh cửu hơn sự bất kỳ nhan sắc mong manh nào.
- Bài thơ có liên quan gì đến sản phẩm của Vitek VTB không?
- Vitek VTB là một doanh nghiệp thiết kế và sản xuất các sản phẩm điện tử dân dụng. Sản phẩm của Vitek VTB là phương tiện để công chúng thưởng ngoạn những tác phẩm văn học nghệ thuật. Trong suy nghĩ của chúng tôi, đây không phải là hành động mua bán đơn thuần mà là tấm lòng của doanh nghiệp đối với một sản phẩm vô giá của dân tộc. Sản phẩm DVD mang tên Hát Hay Hay Hát của chúng tôi dành một vị trí trang trọng cho đĩa DVD Màu tím hoa sim, được thực hiện bởi những nghệ sĩ số một hiện nay. Sản phẩm DVD Vitek sẽ cùng với bài thơ Màu tím hoa sim đi khắp nơi, từ trong nước ra nước ngoài, giới thiệu đến cộng đồng khắp năm châu như một thi phẩm biểu trưng cho nền thi ca VN.
Thanh Chung
|
 |
sontunghn
member
REF: 527441
03/18/2010
|

Màu tím hoa sim: Bản quyền và giá trị thực
,
Mấy ngày vừa qua, trên các tờ báo đều nhất loạt đăng tin thi sĩ Hữu Loan bán bản quyền bài thơ Màu tím hoa sim cho doanh nghiệp Vitek được 100 triệu đồng. Ở đây chúng ta không bàn về giá trị nghệ thuật thơ ca, về sức lan toả kỳ diệu của thi hứng thuần Việt, điều đáng nói nhất chỉ là thái độ ứng xử của xã hội với thơ ca, với tác giả của bài thơ đó.
Nghĩa là thơ ca có được thực sự được coi trọng đúng mức? Tại sao các nhà xuất bản, Hội Nhà văn... không nhận ra giá trị của những bài thơ như Màu tím hoa sim mà lại là một doanh nghiệp vốn dĩ ít liên quan nhất đến thế giới nghệ thuật thơ ca?
Chúng ta đã biết rằng, bình quân mỗi ngày cả nước có đến hơn 10 tập thơ ra đời chủ yếu theo hình thức các nhà thơ tự bỏ tiền túi ra in. Hành trình của các tập thơ này thường đi thẳng từ nhà in đến quầy sách hạ giá và các điểm thu mua giấy loại chứ không tiếp cận được độc giả.
Tất nhiên, tác giả của nó cũng cố gắng quẩy thơ đi tặng: Quen cũng tặng, gặp lần đầu cũng cố mà tặng. Các nhà thơ nổi tiếng hơn một chút thì đến hẳn Văn Miếu - Quốc Tử Giám để tặng thơ, bán thơ, thả thơ theo gió lên giời... nhưng công chúng thì vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Nghĩa là thơ cho không, biếu không cũng vẫn còn khó khăn chứ đừng nói đến được giá, được tôn vinh ngưỡng mộ.
Ở thế kỷ trước, thi sĩ Tản Đà đã từng cảm khái: Văn chương hạ giới rẻ như bèo! Tóm lại, thái độ ứng xử của công chúng đối với thơ ca không phải chứng minh cũng đã rõ như ban ngày, thậm chí nếu ta gọi ai đó là nhà thơ thì điều đó có nghĩa là ta muốn xúc phạm họ một cách nhẹ nhàng, ý nhị.
Tất nhiên, thái độ của công chúng đối với thơ ca như hiện nay làm các nhà thơ bực lắm, giận lắm nhưng nếu các nhà thơ tự in thơ rồi tặng thơ cho nhau thì tình hình lại còn tồi tệ hơn nữa! Kẻ viết bài này cũng đã trót dại tặng thơ cho vài người bạn thơ và khi thấy tập thơ kèm chữ ký của mình trong quang gánh của người đi mua giấy lộn thì chỉ còn biết...cười như mếu mà thôi!
Nhưng dẫu sao, cái mớ bòng bong này cũng làm nảy sinh một nghi vấn quan trọng: Những thứ đó có phải là thơ ca thực sự không? Văn hào Bunhin đã có lần mai mỉa khi người ta giới thiệu một tài năng thơ ca với ông: Ở chỗ các anh, thiên tài nhiều như nấm! Tài năng mà lạm phát thì từ xưa tới nay chưa bao giờ có và như vậy vấn đề nằm ở chỗ có quá ít thơ thực sự là thơ chứ hoàn toàn không phải vì công chúng ghẻ lạnh với thơ ca.
Cách đây 2 năm, nhà văn Nguyễn Quang Thân có lần chuyện vãn đã kể lại một cách đầy hứng thú: Thời trẻ của bọn anh, ai cũng chép bài Màu tím hoa sim và cất nó vào ba lô mang đi khắp các chiến trường. Thơ là phải như vậy, phải rung động lòng người, chạm tới phần sâu kín nhất của mỗi con người...
Đánh giá một bài thơ như vậy là dựa theo tình cảm lòng người nhưng trả giá cho một bài thơ như thế thì sao? Điểm hay nhất ở đây chỉ là: Không phải Hội Nhà văn thẩm định và định giá một tác phẩm nghệ thuật mà là một doanh nghiệp, nơi ít có điểm tương đồng nhất với thi ca.
Quang Hải
|
 |
aka47
member
REF: 527445
03/18/2010
|

Xin mời nghe giọng ngâm tuyệt vời của ngâm sĩ Hồng Vân qua bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hữu Loan.
Và cũng để tưởng nhớ một nhà thơ lớn làm rung dộng hàng triệu triệu người từ Nam ra Bắc qua nhiều thế hệ nay không còn nữa.
Cảm ơn anh SonTung đã cho biết tin buồn này.
|
 |
ladieubongg
member
REF: 527473
03/18/2010
|

Cám ơn Sơn Tùng đã cho biết tin và AK đã cho thưởng thức giọng ngâm tuyệt vời.
Thật xúc động khi nghe.
|
 |
vuhuu
member
REF: 527478
03/18/2010
|

Xin cúi đầu vĩnh biệt một NHÀ THƠ và chia buồn với tang quyến. Cầu mong Ông sớm được siêu thoát và an nghỉ cõi vĩnh hằng.
Cảm ơn bạn Sontunghn và bạn Ak47.
|
 |
violet13
member
REF: 527528
03/19/2010
|

violet xin thắp một nén nhang
Cám ơn chủ nhà
|
 |
nakata
member
REF: 527530
03/19/2010
|

Nghiêng mình kính cẩn tưởng nhớ nhà thơ Hữu Loan.
Cám ơn bài copy and paste.
|
 |
sontunghn
member
REF: 527561
03/19/2010
|

Hữu Loan - Người đi bộ ngược chiều
Tin buồn mà một người bạn xứ Thanh nhắn vào máy di động của tôi ngày 18/3: "nhà thơ Hữu Loan đã ra đi" khiến lòng tôi xao xác. Vậy là thêm một nhà thơ đàn anh đầy hoạn nạn đã chuyển cõi.
Vợ anh mất sớm...
Chỉ ít lâu sau ngày Hải Phòng và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (13/5/1955), tôi đã nghe chị em mình ngâm nga: "Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng - có người chưa biết nói/ Khi tóc nàng xanh xanh/ Tôi người Vệ quốc quân/ Xa gia đình/ Yêu nàng như tình yêu em gái/ Ngày hợp hôn nàng không may áo cưới..."
Chị tôi đã bật khóc khi đọc: "Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người em nhỏ hậu phương/ Tôi về không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên nàng đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương tàn lạnh vây quanh". Chị nói đấy là thơ khóc vợ của nhà thơ Hữu Loan.
Cái tên Hữu Loan đã ám ảnh tôi từ đó. Sang mùa xuân sau, tôi lại nghe bài hát Hoa lúa của Trần Chung phỏng thơ Hữu Loan hay đến xao xuyến. Tôi vừa phục nhạc sĩ vừa phục nhà thơ. Thế rồi thời gian bẵng đi, rồi chiến tranh...
Màu tím hoa sim qua giai điệu của Phạm Duy trở thành Áo anh sứt chỉ đường tà. Không hiểu sao nhiều người lính cứ thầm nghêu ngao câu nhạc "Áo anh sứt chỉ đường tà, Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu..."
Hóa ra "màu tím hoa sim" là cảnh ngộ của nhiều người lính trên trái đất này trong chiến tranh. Có một bài dân ca Grudia mà nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã từng rất thích cũng mang tứ như thế. Sau Màu tím hoa sim, ta còn đọc Núi đôi của Vũ Cao, Quê hương của Giang Nam đều có cái tứ ấy. Vậy là bi kịch này sẽ còn mãi nếu còn chiến tranh.
Ở Việt Nam, Hữu Loan là người phát ngôn bi kịch ấy bằng thơ đầu tiên. Một bài thơ xuất thần được trả giá bằng cái chết đau thương của chính vợ nhà thơ - bà Lê Đỗ Thị Ninh. Và với việc phát ngôn bi kịch này, ngược với cách tuyên truyền tụng ca ngày đó, Hữu Loan đã chính thức là "người đi bộ ngược chiều" trong nhiều năm tháng của lịch sử văn học Việt Nam.
Người đi bộ ngược chiều
Thống nhất đất nước, tôi trở về Hà Nội. Qua tiếp xúc với Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần... và nhất là Văn Cao, tôi mới biết được khí phách của "người đi bộ ngược chiều" này. Văn Cao kể rằng sau vụ "Nhân văn Giai phẩm", Hữu Loan có quyết định giống như Nguyên Hồng là về quê. Nguyên Hồng về ấp Cầu Đen là để viết tiếp những dự định tiểu thuyết của mình. Còn Hữu Loan thì đoạn tuyệt hẳn với nghề viết. Ông sắm xe đạp đi thồ đá ở Nga Sơn (Thanh Hoá quê ông).
Đêm trước khi về quê, Hữu Loan và Văn Cao đã đi bên nhau trắng đêm quanh hồ Thuyền Quang. Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm sự, họ đã trút sang nhau cạn kiệt đến thanh thản. Đêm ấy đã gợi cho Văn Cao viết bài thơ "Cạn": "Những tiếng gà lên/ Rụng hết, những ngôi sao cuối/ Tiếng kêu ở trong tôi/ Có xót xa có cả vui mừng/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước..."
Nhà thơ Hữu Loan và nhạc sĩ Phạm Duy, Ảnh: Nhipcauthegioionline
Mùa thu 1987 là mùa thu Hữu Loan ra Hà Nội. Chính mùa thu ấy, tôi mới thực kiến diện "người đi bộ ngược chiều". Hữu Loan vui mừng với thời đổi mới bằng việc mang ra một tập thơ mang tên "Màu tím hoa sim" với những bài thơ lừng danh một thời như "Đèo cả", "Hoa lúa", "Những làng ta đi qua", "Nguyễn Sơn", "Quách Xuân Kỳ"... Những cuộc rượu đầm đìa nước mắt của cố nhân gặp cố nhân. Những ngày ấy, khi ông ở nhà tôi, khi ông ở nhà anh Chu Thành (tức Tú Sót). Anh em hàn huyên bao chuyện không dứt. Hữu Loan cũng là một "tiên tửu". Càng say, ông càng vuốt những sợi râu cước oai phong và đọc vang Đường thi. Ông có lối dịch thơ Đường cũng khác người. Ông ngông đến mức không biết giữa ông với tiên sinh Tản Đà, ai hơn ai kém. Chất chứa trong lòng bao nhiêu ẩn ức, vậy mà tiếng cười Hữu Loan vẫn trong vang, sảng khoái. Tiếng cười của người thồ đá.
Có một đêm uống rượu khá say ở nhà ông Chu Thành, tôi dìu ông ra vỉa hè đường Bà Triệu và sau đó đi bộ về Hàng Bông. Vừa đi tôi vừa ngẫu hứng từng câu thơ trong cuộc "đi bộ ngược chiều" đó: Khoác vai nhau đi/ngược đường Bà Triệu/Người ba mươi năm trước/người hôm nay/Không khoảng cách/Anh thầm thì sợ lạc/như từng lạc/Khiến tôi đang say/chợt tỉnh/rồi lại say/Nếu là ôtô/Là môtô/Là xe đạp/sẽ bị tuýt còi ngay/Nhưng ngược chiều là hai người đi bộ/Những bước chân chẳng nói được gì về tốc độ/Trong đầu họ những tứ thơ vụt bay/Hai người/hai thế hệ/cách nhau ba mươi năm/vẫn đang cùng sóng đôi/Đi ngược chiều đường Bà TriệuTrong đêm ai dõi nhìn có hiểu/Họ sẽ cùng đi tới sáng bằng lối này/Ngỡ ông say không nghe, vậy mà hết bài thơ, ông nắm chặt tay tôi. Không nói/ Lại bước tiếp.
Cứ thế, ông đã là "người đi bộ ngược chiều" cho đến hôm nay khi bước vào tuổi 95. Giống như mẹ tôi khi mất, ông đã sống thọ theo cách nói của hôm nay là "đá bù giờ sau phút", đã ngừng hành trình của "người đi bộ ngược chiều", tạc lại đời một khí phách Hữu Loan.
Nguyễn Thụy Kha
|
 |
sontunghn
member
REF: 527570
03/19/2010
|

Núi Vân Hoàn tiễn Hữu Loan về cõi
- Nhà thơ Hữu Loan, một trong những người con nổi danh nhất của xứ Thanh đã vĩnh biệt chúng ta vào hồi 19h25 ngày 18/3/2010 tại quê nhà, hưởng thọ 94 tuổi.
Ông ra đi thanh thản, nhẹ nhàng và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá giúp bà con xóm giềng. Bản tính xưa nay của ông là như vậy, những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời mà chính là bước sang một thế giới khác sinh hóa vô thường. (Trích điếu văn do nhà thơ Hữu Thỉnh soạn viếng nhà thơ Hữu Loan).
Lúc 1h30 sáng 19/3/2010, gia đình đã làm lễ phát tang. Lễ động quan diễn ra vào 15h30 chiều cùng ngày và đưa nhà thơ Hữu Loan về nghĩa trang của xã Nga Lĩnh, nơi yên nghỉ cuối cùng của ông.
Bà Phạm Thị Nhu (77 tuổi), vợ ông đã khàn giọng khóc chồng bần thần mỗi khi đoàn người vào viếng. Bà chỉ biết đưa nhẹ cánh tay già nua vẫy chào và gật đầu trong sự mệt mỏi.
Nhiều đoàn khách tiến đến bên bà, dìu nhẹ bà Nhu mới đủ sức đứng dậy, tiến lại gần di ảnh chồng mình thắp nhang, cúi lạy.
Những người con trong gia đình cho biết, từ khi nhà thơ Hữu Loan lâm bệnh, rất ít khi bà Nhu xa nhà lấy một ngày. Nhiều đêm bà thức ròng nói chuyện để ông quên đi bệnh tật.
Bà Nhu và nhà thơ Hữu Loan đã có 50 năm sống cùng nhau, cùng lăn lộn sinh tử. Họ có với nhau mười người con, tất cả đều trưởng thành tuy chỉ nuôi bằng “gạo chợ nước sông”.
Hình ảnh gia đình và bạn bè đưa nhà thơ Hữu Loan về nơi yên nghỉ cuối cùng:
Di ảnh của nhà thơ Hữu Loan
Bà Phạm Thị Nhu khàn giọng khóc chồng
Bức trướng con cháu viếng nhà thơ Hữu Loan
Linh cữu nhà thơ Hữu Loan
Bạn bè, đồng nghiệp vào viếng nhà thơ
Lê Nguyễn
|
 |
sontunghn
member
REF: 527587
03/19/2010
|

Gặp lại... "Màu tím hoa sim"
- "Tôi lại cứ tự hỏi sao Hữu Loan lại có thể tạo ra những vần thơ bay bổng, da diết với những cảm giác mơ mộng mà đau đớn như thế. Thơ ông mang một cái buồn man mác, miên man, rất nhiều lần đọc bài thơ của ông nhưng cảm xúc vẫn rộn ràng nguyên vẹn như lần đầu tiên được đọc những dòng thơ ấy".
LTS: Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan thực sự đã ám ảnh rất nhiều thế hệ. Một thầy giáo đã về hưu ở Huế và một cô giáo đang dạy ở Hà Nội đã gửi tới Bee nhưng tâm sự về Hữu Loan và màu tím ám ảnh trong thơ ông. Bee đăng bài viết như một chút lòng thành để bày tỏ lòng mình với hồn thơ nhiều người mến mộ
Thầy giáo Mai Văn Hoan (từng giảng dạy chuyên văn nhiều năm ở Huế): Ám ảnh từ thủa học trò tới khi bạc tóc
Tôi còn nhớ hồi miền Nam mới được giải phóng, ở các bến tàu, bến xe mỗi lần nghe những người hát rong nức nở “nhưng không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương...” là lòng tôi cứ quặn thắt.
Nhớ "Màu tím hoa sim của Hữu Loan". Lối viết rất hiện đại: một giọng thơ tự do, phóng khoáng, câu thơ dài ngắn chen nhau, không quá câu nệ vào vần điệu. Hữu Loan không hề đề cập đến chuyện vợ mình mất trong hoàn cảnh nào (theo nhà thơ cho biết thì vợ ông bị chết đuối) nhưng cả bài thơ khiến cho người đọc, người nghe cứ trào dâng nước mắt.
Màu tím hoa sim ám ảnh nhiều thế hệ
Bao nhiêu nghịch lý chồng chất, tầng tầng, lớp lớp: Người ra trận không chết mà người em nhỏ hậu phương lại chết là một nghịch lý; chiếc bình hoa ngày cưới - tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi, lại biến thành bình hương tàn lạnh khói vây quanh cũng là một nghịch lý; ba người anh ở chiến trường biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng lại thêm một nghịch lý nữa... Tất cả cứ xoáy vào tâm can tác giả, xoáy vào tâm can người đọc, người nghe.
Bài thơ viết năm 1949 nhưng năm 1975, thời hậu chiến đọc lại, nghe lại vẫn tươi mới, vẫn đủ ngôn lực làm lay động lòng người. Từ nỗi đau riêng, nhà thơ đã chạm đến nỗi đau chung của nhiều người, và của cả một dân tộc phải chịu bao mất mát, chia ly vì chiến tranh. Vâng, chiến tranh, dù kẻ thắng người thua, không ai không phải đối diện với mất mát...
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
bé bỏng
chiều quê.....
Người lính ra trận, không sợ mình hy sinh, chỉ lo cho vợ ở nhà. Hình ảnh Người vợ : chờ - bé bỏng - chiều quê” cứ ám ảnh mãi trong tâm trí tôi mỗi khi nhớ về những năm tháng chiến tranh.
Màu tím hoa sim cho ta tin rằng những bài thơ hay có cuộc sống riêng của nó...
Ngày xưa, sắp sửa vào tuổi mười bảy, đang học cấp III trường huyện, tôi đã chép bài thơ trong sổ. Run lẩy bẩy khi bị phát hiện, tôi đã vội xé và đốt bài thơ đi. Nhưng cũng từ đó những câu thơ trong Màu tím hoa sim cứ ám ảnh tôi. Đến tận bây giờ.
Nhà thơ Hữu Loan đã rời xa cõi tạm. Rất nhiều người khóc thương "Màu tím hoa sim". Lại một lần nữa tôi thấy rằng, thời gian luôn sáng suốt.
Cô Lan Anh (Giáo viên dạy môn Văn học, trường PTHT Thăng Long, Hà Nội): Thêm một nốt thơ nữa bay về với thế giới của thơ
Cách đây vài ngày, cả nhà tôi còn tụ tập hát karaoke, tôi còn hát bài “Những đồi hoa sim”, tôi được biết, bài thơ này được phổ nhạc từ bài “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan. Thú thực là, khi hát bài đó, tôi cũng như mọi người đều không để tâm đến việc tác giả của bài thơ còn hay mất.
Nay nghe tin Thi sĩ Màu tím hoa sim từ trần, tôi giật mình và lặng người. Vẫn biết rằng cuộc sống là phải có sinh có tử, nhưng sự ra đi của ông vẫn cứ để lại trong tôi cảm giác bàng hoàng và mất mát. Chợt thấy mình như có lỗi và vô tâm với cái màu tím mà tôi mê từ nhỏ.
Tuy bài thơ “Màu tím hoa sim” của ông không được đưa vào chương trình giảng dạy trong trường học, nhưng nó có một chỗ đứng không hề nhỏ trong thi ca Việt Nam. Tôi chắc rằng, với những ai yêu thơ cũng ít nhất một lần được đọc bài “Màu tím hoa sim” của ông.
Tôi nhớ một lần, tôi đọc một đoạn thơ về “Màu tím hoa sim” để lấy dẫn chứng cho học sinh, có một vài học trò nữ của tôi đã bật khóc và xin chép lại bài thơ khi nghe tôi kể tiểu sử về bài thơ tình được coi là hay nhất của thi đàn Việt Nam ở thế kỷ 20. Tôi chắc rằng, có không ít người đã khóc khi đọc những vần thơ ấy bởi sức truyền cảm từ lời thơ, từ những cảm xúc rất thật của nhà thơ quá lớn.
Giờ ngồi ngẫm lại, tôi lại cứ tự hỏi sao Hữu Loan lại có thể tạo ra những vần thơ bay bổng, da diết với những cảm giác mơ mộng mà đau đớn như thế. Thơ ông mang một cái buồn man mác, miên man, rất nhiều lần đọc bài thơ của ông nhưng cảm xúc vẫn rộn ràng nguyên vẹn như lần đầu tiên được đọc những dòng thơ ấy.
Tuy chỉ để lại cho thi đàn Việt Nam một số bài, nhưng đó lại là những bài thơ để đời. Nhắc tới ông, tôi lại bầm lòng với những câu thơ của về màu tím hoa sim. Như vậy, màu tím hoa sim của ông đã làm "tím cả chiều hoang" trong nền thơ ca Việt Nam! Thêm một nốt thơ nữa bay về với thế giới của thơ...
Tôi chỉ xin nói một chút để bày tỏ lòng mình với hồn thơ mà tôi mến mộ từ lâu…
MÀU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
bé bỏng
chiều quê...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh.
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Ao nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông...
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa :
“ Ao anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...”
Hữu Loan
|
 |
sontunghn
member
REF: 527593
03/19/2010
|

Biền biệt Hữu Loan
- “Nghe tin ông mất, tôi đã lặng người nghe lại mấy bài hát phổ thơ "Màu tím hoa sim". Thế là Hữu Loan thi sĩ đã biền biệt nhưng “Màu tím hoa sim” của ông sẽ mãi cồn cào da diết trong lòng nhiều người Việt".
...Vào một buổi chiều tối, năm 1988, khi đó tôi đang ở Huế, thấy nhà thơ Hải Vân cạnh nhà sang thì thầm với tôi là vừa đón nhà thơ Hữu Loan từ Hà Nội vào bằng tàu hỏa. Anh mời tôi sang nhà anh uống rượu với Hữu Loan, và nhờ tôi đưa Hữu Loan về ở nhà tôi...
Khi tôi sang nhà Hải Vân thì Hữu Loan vừa tắm xong. Lúc đó ông đã 72 tuổi, râu để dài, nhưng trông ông vẫn khỏe như một lực điền, nước da ngăm chắc, cặp mắt lấp lánh với nụ cười tươi.
Khi uống rượu với ông, tôi được biết tháng trước ông từ Thanh Hóa ra Hà Nội thăm lại bạn bè và tá túc trong căn nhà hầm của nhà thơ Tú Sót (tức Chu Thành, biên tập viên nhà xuất bản Thanh Niên, 64 Bà Triệu – Hà Nội). Ông nói: Nhờ có chính sách “Đổi mới” trả lại tự do sáng tác cho các nhà văn thời Nhân văn giai phẩm (NVGP) ông mới quyết định tái xuất.
Tối hôm đó ông về ở nhà tôi và đưa tôi mấy tập thơ viết trong vở học trò. Đây là thơ ông viết trong 30 năm đốn củi, chở đá ở quê.
Tôi ngồi đánh máy lại cho ông 3 trường ca và một số bài thơ. Thơ ông cứ bậc thang lên xuống như hình thức “Đèo Cả” 40 năm trước, nó gập ghềnh và hào sảng như con đường dốc đá mà ông đã tự mình xe đá. Tôi bảo ông, dù đổi mới rồi nhưng thơ của bác vẫn khó in, bởi vẫn cái tinh thần thơ khái trực thời NVGP lên án quyết liệt những tiêu cực của xã hội (kiểu như bài thơ “Cũng những thằng nịnh hót” ông từng viết. Thời đó người ta chưa kịp “kỷ luật” ông thì ông đã bỏ về quê).
Nhạc sĩ Văn Cao lúc sinh thời kể cho tôi biết, một đêm rất khuya, Hữu Loan mang một tay nải đến nhà Văn Cao rủ nhau ra hồ Thiền Quang tâm sự trước lúc rời Hà Nội. Họ đi mãi quanh hồ cho đến gần sáng. Dù Văn Cao muốn giữ ông lại, nhưng Hữu Loan vẫn một mực ra đi quyết trở lại làm một “lão nông tri điền”. Cuối cùng, Văn Cao đã phải tiễn ông ra bến xe gần đó để về Thanh Hóa....
Tôi gọi điện mời Hoàng Phủ Ngọc Tường đến cùng tôi đưa Hữu Loan đi ăn sáng. Ông thích cơm hến, và ngạc nhiên là mỗi tô cơm hến chỉ hết nghìn bạc..
Hôm sau, Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên mời ông nói chuyện với anh em Văn nghệ Huế. Hóa ra, 30 năm rồi, vẫn còn quá đông “dân” văn nghệ Huế nhớ và yêu tác giả “Màu tím hoa sim”. Có chiếc micro đặt trước mặt nhà thơ. Hữu Loan gạt đi. Không phải vì vướng mà vì thi sĩ đã 30 năm đốn củi, cuốc ruộng không biết rằng phải nói vào đó thì tiếng ông mới được phóng to lên!!!
Hóa ra 30 năm ông quên mất điều đó. Ông nói đây là lần đầu tiên sau rất nhiều năm ông mới được tiếp xúc và nói chuyện với đám đông (dù ông đã từng nói trước đám đông trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 cướp chính quyền tại thị xã Thanh Hóa mà ông là một trong những người lãnh đạo tại đây lúc bấy giờ).
Nhiều nhà thơ, nhà văn và công chúng yêu “Màu tím hoa sim” đã mời ông thăm thú cố đô Huế. Mấy hôm sau, có xe của Hội Văn nghệ Lâm Đồng qua Huế, ông đã theo họ chu du về phía nam...
Từ đó tôi không gặp lại Hữu Loan.
Từ nay dưới chân núi Vân Hoàn đã vắng bóng ông, một nhà thơ cương trực, khí phách nhưng cũng đầy những câu thơ ứa lệ.
Khi nghe tin ông mất, tôi đã lặng người nghe lại mấy bài hát phổ thơ "Màu tím hoa sim" của ông, và nhớ mãi những câu thơ da diết khôn cùng:
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học Thành chung ở Thanh Hóa, đậu tú tài Tây năm 1938 tại Hà Nội (vì vậy ở quê thường gọi là cậu Tú Loan).
Thời đó, bằng tú tài rất hiếm, rất ít người có nên ông được mời vào làm trong Sở Dây thép (Bưu điện) Hà Nội nhưng ông không làm mà đi dạy học và đã từng là cộng tác viên của các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Năm 1939 ông tham gia Mặt trận Bình Dân rồi về tham gia Mặt trận Việt Minh tại thị xã Thanh Hóa.
Năm 1943, ông gây dựng phong trào Việt Minh ở quê nhà, và khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, rồi được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.
Trong kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tình nguyện đi bộ đội, phục vụ trong sư đoàn 304 và làm chính trị viên tiểu đoàn, đồng thời làm chủ bút tờ Chiến Sĩ của sư đoàn.
Tháng 2 năm 1948, ông cưới cô Lê Đỗ Thị Ninh là người học trò cũ mới 16 tuổi. Cưới nhau xong, ông lại lên đường ra mặt trận. Ba tháng sau, ông được tin người vợ trẻ tuổi ở nơi quê chết đuối. Ông quá đau khổ, viết lại chuyện hai người thành bài thơ Màu tím hoa sim.
Năm 1954, cưới Phạm Thị Nhu cô gái 17 tuổi. Cuộc hôn nhân này đã cho ông 10 người con và hơn 30 người cháu.
Đầu năm 1955, ra khỏi quân đội, ông về Hà Nội xin vào làm việc tại báo Văn Nghệ. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, ông bỏ Hà Nội về sống tại quê nhà và mất vào lúc 21 giờ ngày 1/3/2010
Các tác phẩm: Một số bài thơ đã được nổi tiếng: Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ Hữu Loan
Tại miền Nam, bài Màu tím hoa sim đã được hai nhạc sĩ Dũng Chinh và Phạm Duy phổ nhạc, mỗi người theo cách riêng của mình nhưng đều nổi tiếng.
Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: vitek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.
Nguyễn Trọng Tạo
|
 |
nanghoanghon20
member
REF: 527655
03/19/2010
|

Nắng Hoàng Hôn xin thắp ba nén nhang tiễn biệt Nhà thơ HỮU LOAN ! xin chia buồn cùng gia quyến tang Chủ !
|
 |
nanghoanghon20
member
REF: 527656
03/19/2010
|

Nắng Hoàng Hôn xin thắp ba nén nhang tiễn biệt Nhà thơ HỮU LOAN ! xin chia buồn cùng gia quyến tang Chủ !
|
 |
sontunghn
member
REF: 527659
03/19/2010
|

Thi sĩ Hữu Loan và mối tình bất hủ
Gần đây nghe tin ông ốm nặng, bệnh thấp khớp tái phát, đau nhiều khiến ông không đi lại được. Không biết đã bao lần tôi định bụng thu xếp công việc để về quê, ghé thăm ông, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Hôm nay nghe tin ông mất (ông mất lúc 19h, ngày 18/3/2010), tôi bàng hoàng, vừa đau buồn, vừa trách cứ bản thân.
Xin tạ lỗi cùng ông, tôi viết lại những kỷ niệm về ông như một lời tiễn biệt. Ở nơi chín suối mong ông được bình an!
Một số phận long đong
Lần cuối cùng gặp ông cũng đã tới 6 năm rồi. Ấy là khi chúng tôi cùng ông Lê Văn Chính, Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB (từ thành phố Hồ Chí Minh ra) vào nhà ông (dưới chân núi Văn Lỗi, làng Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách Thành phố Thanh Hóa chừng 50km) để xin nhượng bản quyền bài thơ “Màu tím hoa sim”.
Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to: “Cụ Loan ơi!”. Lát sau, ông lững thững đi ra, áo may ô ba lỗ màu cháo lòng, quần đùi lửng, tay cầm chiếc quạt mo, vỗ phành phạch mấy cái vào đùi hỏi vọng ra: “Đứa nào đấy?”. Ông nheo mắt nhìn vào mặt tôi, rồi chợt nhận ra, có vẻ rất vui, cười sảng khoái. Ông bảo: “Trừ mày ra bố bảo đứa nào dám réo tên tao oang oang như rứa”.
Khi biết mục đích chuyến thăm ông lần này là Công ty điện tử Vitek VTB muốn mua độc quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” của ông với cái giá 100 triệu đồng, ông tỏ ra khá sửng sốt.
Ông mời chúng tôi ngồi bên cái chõng, dưới gốc cây khế ngoài vườn, rồi lặng lẽ rót rượu ra mời khách. Mái tóc ông bạc trắng, để dài xõa xuống ngang vai, trước trán găm một cái bờm bằng nhựa màu huyết dụ. Bước vào cái tuổi cửu tuần rồi mà mắt ông vẫn còn tinh anh, giọng ông còn sang sảng, chỉ có điều, trông ông hơi hốc hác, những gân cổ và xương quai xanh nổi gồ cả lên, như đắp bằng thạch cao, như vạc bằng rìu.
Nhấp một ngụm rượu ông nhìn vào ông Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB như thăm dò: “Thế các ông lấy bao nhiêu phần trăm?”. “Của cụ hết cụ ạ” - sau khi nghe ông Chính nói vậy ông cười khà khà, quạt lấy quạt để.
Theo lý lịch công tác thì nhà thơ Hữu Loan sinh năm 1916, nhưng ông nói với tôi là ông sinh năm 1914 trong một gia đình tá điền nghèo, hồi nhỏ ông không có cơ may được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Cha ông tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, ông cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Có lần Hữu Loan kể rằng, vào khoảng năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, không phải là để thăng quan phát tài mà là để chứng minh cho đám con cháu nhà giàu thấy rằng con tá điền, không được đến trường, vẫn đỗ cao như chơi.
Đám sĩ tử kinh thành từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi sáu bảy chục năm sau người ta vẫn còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, như Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và Hữu Loan.
Có thể nói cuộc đời ông là một bi kịch lớn. Hữu Loan tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, rồi tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa)... Trước năm 1945, ông từng là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Theo Hữu Loan kể lại thì một lần tại cuộc họp của Ủy ban hành chính ông đã nhảy lên bàn đấm thẳng vào mặt một tay "giữ “túi cơm, manh áo” của kháng chiến, đã ăn bớt ăn xén của anh em lại còn phát biểu láo”. Hữu Loan bỏ về quê đi cày. Mến mộ tài danh cái “gã giang hồ mà lịch duyệt” ấy nên lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn đã mời ông vào phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông về làm biên tập viên tại Báo Văn Nghệ. Nhưng rồi cũng chỉ được một thời gian ngắn. Chán ngán với cảnh “gà nhà đá nhau”, rồi “gà nhà bị người ta đá”, ông đứng giữa sân trụ sở làm việc bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác: “Ông đếch làm việc với chúng mày nữa” và bỏ về quê đi cày, đi thồ đá bán lấy tiền nuôi đàn con hơn chục đứa. Và ông ở quê cho tới ngày ông trút hơi thở cuối cùng.
Người con gái trong “Màu tím hoa sim”
Trong sự nghiệp sáng tác của mình Hữu Loan viết không nhiều. Trong số khoảng trăm bài thơ của ông mà tôi biết, thực tình mà nói, tôi vẫn coi “Đèo cả” là một tuyệt tác của ông. Tuy nhiên bài thơ mà nhiều người biết đến nhất và ông nổi tiếng vì nó lại là bài “Màu tím hoa sim”. Và gần như cuộc đời thăng trầm của ông cũng gắn với bài thơ này.
Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Xung quanh câu chuyện này đã được kể và viết rất nhiều và không ít người đã thêu dệt cho nó ly kỳ.
Trong nhiều năm quen biết và qua nhiều lần trò chuyện cùng ông cả trong lúc “trà dư tửu hậu”, ông đã kể cho tôi nghe về người vợ xấu số của ông. Tôi cũng đã về tận Nông Cống (Thanh Hóa) nơi Lê Đỗ Thị Ninh bị dòng nước cuốn đi và “sinh ra” cho người đời một khúc bi ca bất hủ. Tôi cũng đã lần tìm tới những người thân của bà Ninh để được nghe về cuộc đời ngắn ngủi của bà.
Nhà thơ Hữu Loan kể: “Vào khoảng năm 1932-1933, tôi được gia đình cho lên thành phố Thanh Hoá để theo học trung học.
Ở Thanh Hoá thời bấy giờ có hai hiệu sách rất nổi tiếng. Một hiệu có tên là Hà Thành. Đây là hiệu sách của ông Trương Khâm, khi ấy là huynh trưởng hướng đạo sinh Hà Thành. Còn hiệu sách thứ hai là hiệu Hoà Yên của bà Tham Kỳ (tức bà Đái Thị Ngọc Chất) ở 48 phố Lớn (Trần Phú hiện nay). Bà Chất là vợ ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, có lúc làm Thanh tra canh nông Đông Dương; sau này từng làm Chủ tịch huyện Đông Sơn, rồi huyện Nông Cống, Thanh Hoá, là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Sau này ông Kỳ đưa cả gia đình ra Hà Nội sinh sống. Lũ học sinh chúng tôi thường ra hiệu sách của bà Tham Kỳ để mượn đọc”.
Bà Đái Thị Ngọc Chất là người rất yêu văn chương, thấy Hữu Loan nhà nghèo nhưng lại ham học nên rất quý. Bà thường “đàm đạo” thơ văn với Hữu Loan. Phần vì trọng tài, phần vì nể phục tư chất thông minh và khảng khái của chàng trai nên bà Chất bàn với chồng mời Hữu Loan về làm gia sư cho 3 người con trai của mình.
Trong bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan viết rất thật: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội...”. Người con trai cả của ông bà Tham Kỳ là Lê Hữu Khôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, hy sinh (năm 1954) chỉ vài giờ trước khi đơn vị của ông bắt sống tướng De Castri, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Người con trai thứ ba mà Hữu Loan làm gia sư là Lê Đỗ An, sau này lấy tên là Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay đã mất). Lê Đỗ Thị Ninh là cô con gái kế tiếp của vợ chồng ông Tham Kỳ.
“Các em nàng có em chưa biết nói...”. “Người em chưa biết nói mà nhà thơ Hữu Loan nói tới trong bài thơ chính là em Lê Thị Như Ý, sau này là giáo viên, hiện đã nghỉ hưu tại Hà Nội” - Trung tướng Phạm Hồng Cư cho chúng tôi biết.
Khi Hữu Loan đến làm gia sư trong nhà ông bà Tham Kỳ thì ông đã 18 tuổi (Hữu Loan sinh năm 1916) còn Lê Đỗ Thị Ninh còn là một cô bé vài ba tuổi. Ông đã viết rất thực: “Yêu nàng như tình yêu em gái”. Ông coi Lê Đỗ Thị Ninh như em gái thật.
“Nhưng hình như ngay từ lúc tôi bước chân tới nhà bà Tham Kỳ thì bà cụ đã có ý gán Ninh cho tôi. Bà rất quý tôi, dành cho tôi nhiều ưu ái. Tôi ở trong nhà một thời gian thì dọn đi vì bà không chịu lấy tiền nhà, nhưng khi tôi ngã ốm thì bà lại đưa về nhà nuôi. Lê Đỗ Thị Ninh khi ấy còn nhỏ nhưng đã rất có cá tính. Nàng không thích lụa là mà chỉ thích mặc áo vải. Như duyên tiền định, mặc dù trong nhà không ít người làm, nhưng nàng vẫn thường tự rút quần áo của tôi phơi ngoài sân” – Hữu Loan cho biết trong lần trò chuyện với chúng tôi.
Khi Lê Đỗ Thị Ninh lớn lên đi học thì Hữu Loan đã trở thành thầy dạy Pháp văn tại một trường tư thục ở Thành phố Thanh Hoá. Hàng ngày bà Tham Kỳ cho xe kéo tay đưa cô Ninh đi học, sau đó đưa Hữu Loan đến trường. Lê Đỗ Thị Ninh học đến lớp 5 thì Nhật ném bom nên đành phải thôi học.
Trung Tướng Cư nhớ lại: “Em Ninh là một cô bé hiền thục và chăm làm lắm. Bố tôi chuyển ra Hà Nội làm ở Bộ Canh nông, ba anh em chúng tôi ra Hà Nội học rồi tham gia cách mạng. Mẹ và em Ninh phải về ấp Thị Long (Nông Cống, Thanh Hoá), nơi gia đình chúng tôi có mấy mẫu ruộng, đồng thời cũng là để nuôi bà ngoại tôi bị ốm nặng nằm liệt (tai biến mạch máu não). Mẹ tôi phải túc trực bên bà nên mọi chuyện như làm ruộng, nuôi gà, chăn vịt... đều dồn hết lên vai em Ninh”.
Tuy nhiên chuyện chỉ mới dừng ở đấy, bởi vì đối với Hữu Loan khoảng cách tuổi tác giữa hai người quá lớn (16 tuổi) và ông vẫn coi Ninh như em gái.
Mối tình bất hủ
Sau cách mạng Tháng Tám, Hữu Loan trở thành Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách 4 ty: giáo dục, thông tin, công chính và thương chính. Khi khai mạc “Tuần lễ vàng”, ông viết và đọc một bài diễn văn hùng hồn khiến nhiều người dân, trong đó có cô Lê Đỗ Thị Ninh lúc ấy đã 15 tuổi, vô cùng xúc động, đã bỏ tất cả vòng tay, hoa tai vàng ra để hiến cho cách mạng.
Khoảng năm 1947 Hữu Loan làm chủ bút báo “Chiến sỹ” đóng ở miền Trung, dưới quyền có Vũ Cao, tác giả bài thơ “Núi đôi” nổi tiếng và Nguyễn Đình Tiên, tác giả cuốn “Chân dung tướng nguỵ Sài Gòn”. Nguyễn Đình Tiên là cậu họ của Lê Đỗ Thị Ninh.
Một lần trên đường từ Thanh Hoá vào đơn vị Nguyễn Đình Tiên đã nói với Hữu Loan: “Tao thấy con bé Ninh đem va ly quần áo của mày ra phơi và chải đấy”. Hữu Loan ngồi im lặng. Nguyễn Đình Tiên nói thêm: “Hình như chị Kỳ muốn gả nó cho mày”. Hữu Loan gạt đi: “Nó còn nhỏ quá, tao coi nó như em gái mình, lấy làm sao được mà lấy”. Nguyễn Đình Tiên mắng át đi: “Mày lạc hậu lắm. Chị Kỳ dành cho mày mà mày lại không nhận là mày bạc lắm”. Hữu Loan vẫn phân vân. Nguyễn Đình Tiên bồi thêm: “Thôi được rồi để tao thu xếp cho”.
Sau đó Hữu Loan nhận được thư của bà Tham Kỳ gửi vào. Ngày mùng 6 tháng hai (âm lịch) năm 1948, đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức tại ấp Thị Long. Đám cưới đúng như Hữu Loan tả trong thơ: “Tôi mặc đồ quân nhân/ đôi giày đinh/ bết bụi đất hành quân/ nàng cười xinh xinh/ bên anh chồng độc đáo”. Hữu Loan nghỉ phép ở bên người vợ trẻ được một thời gian, trong đó có ít ngày hai vợ chồng về thăm quê ông ở Nga Lĩnh, Nga Sơn. Hữu Loan kể rằng có lần hai vợ chồng đi chơi với nhau ở phố Thanh Hóa, Hữu Loan 33 tuổi, để râu ria rậm rạp tự thấy mình già, đi bên cạnh người vợ mới 17 tuổi thì ngượng nên cứ cố ý tụt lại sau. Người vợ trẻ kéo ông đi cạnh mình rồi bảo: “Em thích có người chồng già như anh”.
Sau “tuần trăng mật”, Hữu Loan từ biệt người vợ trẻ trở lại đơn vị lúc ấy đang đóng quân ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), cách nhà chừng 100 cây số. Thỉnh thoảng chủ nhật Hữu Loan tranh thủ về thăm vợ. Hạnh phúc của họ thật ngắn ngủi, gần 4 tháng sau ngày cưới, ngày 29 tháng 5 (âm lịch) năm 1948, Lê Đỗ Thị Ninh bị chết đuối tại ấp Thị Long khi đang giặt ở sông Chuồng.
“Gió sớm thu về/ rờn rợn nước sông…”. Con sông dữ, mùa nước lũ ở vùng núi Nưa nước cuồn cuộn đổ về, nàng ra sông giặt, trượt chân ngã và bị nước cuốn đi. “Tôi về/ không gặp nàng. / Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh”. Khó hình dung nổi nỗi đau của Hữu Loan khi nghe tin vợ mất, nàng còn quá trẻ: “Tóc nàng xanh xanh/ ngắn chưa đầy búi. /Em ơi giây phút cuối/ không được nghe nhau nói/ không được nhìn nhau một lần”.
Nhà thơ Vũ Cao sau này kể lại: “Hôm ấy ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh…”.
Và rồi ba người anh của nàng cũng bàng hoàng. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể: “Vào thời gian em Ninh mất tôi và anh Khôi đang ở mặt trận, còn chú Lê Đỗ An (tức Nguyễn Tiên Phong) thì đang công tác ở Trung ương đoàn. Năm 1949 tôi được điều về làm ở phòng chính trị Cục quân huấn của Cục Chính trị Bộ quốc phòng (nay là Tổng Cục chính trị), trong một lần đi họp có gặp anh Võ Trí Sơn, bạn thân của anh Hữu Loan, đồng thời cũng là người bạn của gia đình chúng tôi. Anh Sơn bảo: “Em Ninh chết rồi, em chết đuối”. Tôi choáng váng. Anh Sơn bảo tiếp: “Nó lấy Hữu Loan đấy”. Lúc bấy giờ tôi mới biết em Ninh đã lấy nhà thơ Hữu Loan”. Đúng như Hữu Loan viết trong bài thơ: “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ biết tin em gái mất/ trước khi em lấy chồng”.
Hữu Loan viết “Màu tím hoa sim” năm 1949, khi đang dự chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch, xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn, sau này ông chỉ sửa thêm rất ít. Nó là một phần của cuộc đời Hữu Loan, mà có thể lại là phần đẹp và buồn nhất, nên cho dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt ngay cả trong những giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận.
Sau này ông kết duyên và sống trọn đời với người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu. “Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm” - có lần Hữu Loan kể như thế.
Giờ đây ông ra đi sau gần một thế kỷ ở dương thế, nơi mà dấu chân ông đã in suốt chiều dài của cuộc sống thăng trầm nhuộm tím màu hoa sim, về với cõi mộng mơ để rồi lại bước tiếp:
“Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt…”.
Lê Thọ Bình
|
 |
sontunghn
member
REF: 527660
03/19/2010
|

Hữu Loan - cây gỗ vuông màu tím
Nhà thơ Hữu Loan - tác giả của bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim - đã qua đời tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (Nga Sơn, Thanh Hóa) vào lúc 19g ngày 18-3, hưởng thọ 95 tuổi.
Ông là một nhà thơ đích thực của nền thơ hiện đại VN. Ðích thực bởi thơ. Chỉ bằng hai bài Màu tím hoa sim và Ðèo Cả, Hữu Loan đã ghi danh mình cho thơ Việt ở sự riêng tư và mới mẻ.
Màu tím hoa sim là tiếng khóc của người chồng cho người vợ xấu số, là một tiếng kêu cho tình yêu trong thời đạn lửa, là lời phẫn uất trước số mệnh phũ phàng của con người.
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh.
Tiếng thơ ấy đã lập tức đồng vọng và lan xa trong lòng bao người, dẫu ở một thời chiến tranh bắt con người phải nén nỗi đau riêng, vùi chôn tâm trạng cá nhân để ra trận và cầm súng, bởi vì đó là tiếng thổn thức thắt nghẹn của con tim. Ðèo Cả hào hùng, hào sảng tinh thần của một thế hệ dấn thân cho vận nước trong hình ảnh những chiến binh như trượng phu ngang tàng giữa núi rừng, chấp mọi hiểm nguy, đùa cùng gian nan.
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng
ăn nheo mắt
Người vá áo
thiếu kim
mài sắt
Người đập mảnh chai
vểnh cằm
cạo râu
Suối mang bóng người
soi
những
về đâu?
Hai bài thơ khắc ghi dấu ấn rất riêng của Hữu Loan vào một thời thơ. Thơ, chứ không phải cái gì khác, đã làm nên Hữu Loan, đã vinh danh ông. Những nhát thơ Hữu Loan đục vào thời gian, đục vào tâm khảm, để lại dấu tích không phai.
Ông đã sống một cuộc đời dài, thật dài, mà những khổ nạn, thử thách chỉ càng làm bền thêm trong ông những lựa chọn ban đầu khi làm cách mạng và làm thơ. Bỏ phố thị thủ đô về lại quê hương, tự tay vỡ đất vỡ đá lầm lụi tháng ngày nuôi vợ con, nuôi mình chống chọi với cuộc sống thiếu thốn vất vả và nhiều chướng ngại, nhưng ông không nề hà, nản chí.
Hữu Loan là một con người cương cường. Ai đã một lần gặp ông, nhìn ngắm khuôn mặt ông, nhất là đôi mắt, và nghe giọng ông nói đều có thể cảm nhận đây là một con người không chịu gục ngã trước thử thách. Trời đã cho ông sức khỏe và ý chí để thọ cao đến vậy sau bao khổ nhọc chồng chất. Nhưng tôi tin trời thương ông nên đã ban thơ cho ông để ông sống được là mình như vậy. Ông tự gọi mình là cây gỗ vuông:
Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời
Ðã làm thất bại âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc
thế nào
thì lăn lóc.
Chân lý đấy
hỡi
rìu
bào
phó mộc.
Nhà ông, trên bàn thờ chỉ để một chữ "tâm".
Tôi đã thấy chữ "tâm" đó mỗi lần bước vào nhà ông ở một vùng quê xứ Thanh. Lần gần đây nhất là trước Tết dương lịch 2010 mấy ngày. Khi ấy ông đã yếu nhiều, giọng thều thào, nhưng cũng như bao lần có khách đến thăm yêu cầu, ông vẫn cất giọng đọc thơ. Ðọc hai bài Màu tím hoa sim và Hoa lúa. Một bài cho người vợ đầu xấu số mất sớm khiến ông đau xót khôn nguôi hơn 60 năm qua. Một bài cho người vợ sau gắn bó hơn nửa đời người cùng ông trải bao hoạn nạn đắng cay, sinh cho ông mười người con, giữ cho ông tinh thần phải sống.
Giọng ông lúc khỏe nghe rõ ràng, khúc chiết, sai một chữ một từ là ông sửa lại ngay. Lúc yếu, giọng nghe không rõ, nhưng vẫn thấy tỏa ra trong giọng đọc đó tình cảm sâu nặng sắt son của ông dành cho hai người phụ nữ đã làm nên đời ông - đời một con người và đời một nhà thơ.
Thơ ông đã nằm lòng bao nhiêu độc giả hàng chục năm qua. Không chỉ là một, hai bài đã nổi tiếng, mà còn những bài khác được truyền tụng. Như bài Tình thủ đô, mới được nhà thơ Dương Tường và nhà văn Mạc Lân khôi phục mấy năm trước. Như bài Hữu Loan khóc Nguyễn Sơn năm 1956:
Một đám tang đã diễu hành
Một đám tang cờ đỏ liệm quan tài
Nấc lên mầu huyết
Một đám tang đi
Không
bao
giờ
tới
huyệt.
Từ thơ, có thêm một màu là màu tím Hữu Loan. Cây gỗ vuông màu tím - đó chính là chân dung Hữu Loan đời và thơ.
(Sài Gòn 19-3-2010)
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Người thơ bận việc làm người
Ông là nhà thơ đàn anh, người đồng hương xứ Thanh của tôi, nơi nổi tiếng "địa linh, nhân kiệt". Ông cũng thuộc loại "nhân kiệt", không chỉ là "hào kiệt" mà còn là "cùng kiệt", một thường dân kiệt quệ theo nghĩa đen.
Hồi còn ở quê, Ðò Lèn, huyện Hà Trung, giáp với huyện Nga Sơn quê ông, tôi chỉ biết ông qua lời đồn và giai thoại. Cha tôi từng đẩy xe thồ suốt những năm 1960, từng quen biết với ông Tú Loan - tức nhà thơ Hữu Loan một thời. Có lần cha tôi hỏi: "Mày đi học có biết thơ của ông xe thồ này không?". Tôi nói không (nhà trường hồi đó không dạy thơ Hữu Loan).
Cha tôi nói ông Tú Loan hay chữ lắm, đỗ tú tài Tây, làm quan cách mạng thời khởi nghĩa bốn lăm, thời kháng chiến chống Pháp, làm thơ nổi tiếng, nhưng rồi chỉ vì cái tính ngang tàng, ngang bướng mà bỏ về làm dân đen, đi thồ đá, thồ dưa, thồ chiếu, đủ thứ... Cho đến đầu thập niên 1970, sau mấy năm làm lính, khi theo học khoa văn Ðại học Tổng hợp Hà Nội, tôi mới được đọc thơ Hữu Loan.
Rồi gần 20 năm sau tôi mới được gặp ông...
TP.HCM, một ngày thu năm 1988. Tôi đang điều hành cuộc họp cơ quan thường trú của báo Văn Nghệ, tại trụ sở 43 Ðồng Khởi, chợt có người đến tìm gặp, xưng là nhà thơ Hữu Loan, từ quê vào. Lật đật chạy xuống phòng khách, tôi thấy một ông già hom hem, râu tóc lam nham, áo quần xốc xếch, hao hao giống thi sĩ Bùi Giáng, ngồi co một cẳng lên ghế. Cái cách đó đích thị Hữu Loan rồi, theo hình dung của tôi.
Tôi ôm chầm lấy ông như người quen thân lâu ngày chưa gặp. Ông nói tuy chưa gặp tôi nhưng có đọc thơ tôi và rất vui mừng vì xứ Thanh bây giờ có "đứa" làm thơ được như vậy. Ông có người con đang làm thợ ở Ðồng Nai, vào thăm con, rồi đạp xe đi lang thang thăm những ai mà ông muốn gặp...
Tôi xin ông ngồi uống trà, chờ cho tôi kết thúc cuộc họp trong chốc lát nữa. Chừng 15 phút sau, tôi trở lại phòng khách cơ quan, thấy lão thi sĩ đang nằm thẳng cẳng trên ghế xalông, đầu gối lên cái cặp giả da to đùng, ngáy ngon lành. Chiếc xe đạp lấm láp của ông dựng giữa phòng khách và cạnh đó có đôi dép nhựa sứt quai.
Tôi gọi cho mấy người bạn văn nghệ, những người sùng bái thơ Hữu Loan. Chúng tôi quyết định đãi ông một bữa trưa sao cho ông thích thú. Một bữa tiệc "hùng vĩ" - như cách gọi của ông. Tiếp đến tiệc trà. Chúng tôi ngẩn ngơ nghe ông đọc thơ vanh vách, giọng sang sảng. Một bữa tiệc thơ "dữ dội", những Ðèo Cả, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Trung đoàn đi qua...
Hữu Loan kể vắn tắt về những năm tháng ông sống, cả trong kháng chiến, sau hòa bình và nhất là thời gian cực kỳ gian nan, lận đận ở chính quê nhà, sau khi ông bỏ Hà Nội về làng. Một cuộc đời thật ngang tàng, ngang trái mà cũng thật hiên ngang. Một cuộc đời tất tả, bận rộn. Chúng tôi hỏi, ông bận việc gì nhất? Ông thản nhiên trả lời: "Bận việc làm người"...
Sau này, tôi đã mấy lần về thăm ông tại làng quê ông. Chuyện đời, chuyện thơ dài lắm, nhưng lần gặp đầu tiên năm 1988 ấy vẫn để lại trong tôi những ấn tượng mạnh nhất về ông. Cũng sau lần gặp đó, tôi có làm bài thơ bốn câu tặng ông mà đến nay mới có dịp chép lại:
Thơ tặng cụ Tú Loan
Ngang tàng... ngang trái... nghênh ngang
Hồn sim tím một chiều hoang bên đời
Người thơ bận việc làm người
Một mai thánh hóa lên trời làm sao
(TP.HCM, 19-3-2010)
NGUYỄN DUY
Thi sĩ Hữu Loan an nghỉ trên đồi sim
* Sáng 19-3, đông đảo người yêu thơ Hữu Loan đã đến phúng viếng người thi sĩ tài hoa này và chia buồn cùng gia quyến. Đám tang nơi thôn quê đông lạ thường và ai cũng tâm niệm muốn đến tiễn đưa tác giả bài thơ bất hủ Màu tím hoa sim về đồi sim tím.
Ông Nguyễn Hữu Vũ, con trai thứ hai của nhà thơ Hữu Loan, nghẹn ngào: “Mới trước ngày mất một tuần, cha tôi còn ngồi nói chuyện bằng tiếng Pháp, đọc thơ với các giáo viên từ Đà Nẵng đến thăm cụ. Hôm đó trông cụ khỏe, minh mẫn, ai cũng mừng. Nhưng đến cách hôm cụ qua đời ba ngày, bữa cơm nào cụ cũng nhắc con cháu cúng tổ tiên trước. Rồi đột nhiên sáng 18-3, cụ giục con cháu may cho cụ một bộ quần áo dài trắng. Vậy là con cháu biết cụ chuẩn bị ngày ra đi.
Tối 18-3, cụ nằm ngủ một giấc dài và không dậy nữa. Cụ đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 19g ngày 18-3. Con cháu đã an táng cụ trên đồi Vân Hoàn, nhìn ra sông Mã theo đúng tâm nguyện và lời căn dặn của cụ trước lúc lâm chung”.
Chiều 19-3, đoàn cán bộ Hội Nhà văn VN cùng nhà thơ Hữu Thỉnh - chủ tịch hội, Đảng ủy, HĐND, UBND xã Nga Lĩnh (huyện Nga Sơn) đã làm lễ truy điệu và an táng thi sĩ Hữu Loan tại nghĩa trang quê nhà, trên đồi hoa sim tím màu thủy chung. HÀ ĐỒNG
* Hữu Loan lúc nào cũng có một nụ cười thảnh thơi như hiền triết. Khó có thể tưởng tượng hình ảnh một nhà thơ với những vần thơ da diết bi hùng lại dũng cảm lựa chọn nghề đập đá trên núi đẩy xe về chợ bán để nuôi cả mười người con ăn học thành tài.
Được dịp tiếp chuyện với Hữu Loan và bà Phạm Thị Nhu - người vợ hiền tần tảo cùng ông những năm tháng đói nghèo - mới thấy tấm lòng khí khái của kẻ sĩ. Tính cách của ông bà và những người con đều giống nhau ở chỗ cái chất trí thức thanh tao vẫn còn đó, không hề bị lôi cuốn theo những cám dỗ vật chất. Cuộc sống thanh bần nhưng không cần thiết thở than chi nhiều...
Hữu Loan mất đi, điều để lại cho nhân gian không chỉ là những bài thơ tình thế kỷ, mà lớn hơn là một nhân cách hiếm có.
LÊ VĂN CHÍNH
(giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB - đơn vị đã mua bản quyền bài thơ Màu tím hoa sim với giá 100 triệu đồng vào năm 2004)
|
 |
sontunghn
member
REF: 527669
03/20/2010
|

Vĩnh biệt “cậu Tú Loan”
Nhà thơ Hữu Loan - tác giả Màu tím hoa sim nổi tiếng đã tạ thế ngày 18/3/2010 thọ 95 tuổi tại Nga Sơn - Thanh Hóa. Thêm một nhà thơ đàn anh lận đận một thuở đã ra đi. Trong số họ, hình như chỉ còn lại Hoàng Cầm.
Hữu Loan sinh ngày 2/4/1916, đồng niên với Xuân Diệu. Theo lời lể của ông, tuy nhà nghèo nhưng ông lại được một cụ đồ trong làng ưu ái dạy chữ Nho rất tận tâm. Từ đó ông lên học chữ Quốc ngữ trường huyện, học college Thanh Hóa. Ở đấy, ông vừa học vừa làm gia sư cho nhà ông Lê Đỗ Kỳ- Tổng thanh tra Nông lâm Đông Dương (sau là đại biểu quốc hội Khóa 1 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Thầy “Tú Loan” không chỉ được vợ chồng ông Kỳ quý mến mà các con cũng đều kính trọng.
Bà Lê Đỗ Thị Ninh - con gái ông Kỳ, kém thầy 16 tuổi, sau này đã trở thành vợ của ông và đã mất sớm năm 1948 chính là nhân vật “nàng” trong bài thơ Màu tím hoa sim tuyệt bút mà Hữu Loan hay gọi là “bài thơ khóc vợ”.
Năm 1941, Hữu Loan thi đỗ tú tài ở Hà Nội, đậu thư ký văn phòng toàn quyền song ghét Tây nên không đi làm, ông về Nga Sơn tham gia Việt Minh và tổ chức một cuộc cướp chính quyền ngoạn mục, không đổ máu. Sau đó, ông lên làm ủy viên văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, tổ chức “Tuần lễ vàng” hết sức thành công.
Việc gia nhập quân đội năm 1946 đã tạo ra nhà thơ Hữu Loan với bài thơ đầu tiên Đèo cả, với lối thơ bậc thang kiểu Maia- kốp - sky đã làm rung động bao con tim chiến sĩ mặt trận. Đèo cả cùng Tình sông núi, Nhớ máu của Trần Mai Ninh., Hải Phòng - Ngày 19/1/1946 của Trần Huyền Trân đã tạo thành bộ “tứ tuyệt” thơ bậc thang khởi đầu thơ chống Pháp khác hẳn “Thơ mới” lãng mạn, “Xuân thu nhã tập” tượng trưng, “Dạ đài” siêu thực. Nhưng phải đến khi Màu tím hoa sim ra đời, tên tuổi Hữu Loan mới thực sự sáng láng trên văn đàn Việt Nam. Bài thơ làm xong trong hai giờ đồng hồ vào một trưa của thời kỳ chỉnh huấn tại Nghệ An năm 1949. Tuy không ấn hành nhưng nó đã được truyền miệng rộng rãi khắp nơi.
Ngay sau khi Hải Phòng giải phóng, tôi đã được được nghe chị mình đọc bài thơ này. Sau đó Màu tím hoa sim đã được Nguyễn Bính in trên tờ “Trăm hoa”. Và bi kịch chiến tranh trong bài thơ đã trở thành bi kịch của nhà thơ. Đang công tác ở Hà Nội, Hữu Loan bỏ về quê như trút bỏ mọi phiền muộn để làm công việc nặng nề nhưng thanh thản của một người thồ đá. Trong số những nhân vật lận đận thời đó, mọi người thường đùa: “ Ông Loan sống lâu vì thồ đá”.
Hữu Loan “tái xuất giang hồ” vào thời đổi mới. Chính khi ấy, tôi mới thực gặp Hữu Loan khi ông ra Hà Nội mùa thu 1987. Năm 1988, khi có việc “xóa án” cho những Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán… Thơ Hữu Loan đã được giới thiệu trở lại trên tờ “Thanh niên” và sau đó, năm 1990, tập thơ Màu tím hoa sim đã được ấn hành tại NXB Hội nhà văn. Năm ấy, tôi đã cùng ông và Đỗ Nam Cao lang thang khắp Sài Gòn. Ông nói: “Phải lang thang cho hết hòn ngọc Viễn Đông xem nó đẹp đến thế nào mà khiến mình phải chuốc thêm họa”. Cái họa mà ông nói chính là khi bài thơ Màu tím hoa sim được Phạm Duy phổ nhạc và hát nhiều ở Sài Gòn thời Việt Nam Cộng Hòa. Bởi thế, Hữu Loạn tuy đã ở ẩn mà vẫn còn chịu nhiều thị phi. Nhưng đất nước đã đến lúc cần hóa giải dân tộc. Màu tím hóa sim trong thơ ông mãi mãi là màu tím đa cảm và lành sạch của tâm hồn ông. Năm 2005, Phạm Duy đã về định cư ở Sài Gòn. Năm 2008, Phạm Duy về Nga Sơn thăm Hữu Loan. Cùng đi chuyên ấy, nhạc sĩ- họa sĩ Lê Quân đã vẽ bức chân dung ông bằng sơn dầu đầy thần khí. Năm ngoài, Màu tím hoa sim sau khi hát lại nhiều lần ở Sài Gòn đã lần đầu tiên vang lên tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Bài thơ Màu tím hoa sim cũng đã được một công ty truyền thông ở Sài Gòn mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.
Hữu Loan chuyển cõi. Nhưng tác phẩm và khí phách của ông sẽ còn tím mãi màu hoa sim trên dương thế. Xin vĩnh biệt ông.
Nguyễn Thụy Kha
|
 |
sacthuvang
member
REF: 527697
03/20/2010
|

Không hiểu sao mỗi lần vào đọc lại topic này tôi lại khóc!xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh nhà thơ!
|
 |
nakata
member
REF: 527730
03/20/2010
|

Mỗi lần vào topic này mà khóc, có khi dây thần kinh có vấn đề. Xin đi khám bệnh.
|
 |
sontunghn
member
REF: 527798
03/20/2010
|

Màu Tím Hoa Sim
Trịnh Hội
Đêm hôm qua tôi nhận được tin nhà thơ Hữu Loan vừa qua đời mà lòng bỗng cảm thấy luyến tiếc, hụt hẫng. Cứ ngỡ như là mình vừa mất một người thân mà mình hằng thương mến. Dẫu biết rằng tuổi ông đã cao, gian khổ đã nhiều. Và đời người phù du, ai sinh ra cũng sẽ không tránh khỏi câu sinh, lão, bệnh, tử. Thế nhưng tôi vẫn có cảm giác như ông chưa nên vội ra đi trong lúc này.
Vì thế gian vẫn còn rất nhiều người mến mộ ông. Có thể học được từ ông rất nhiều về tình người và sự trung trực. Và đất nước vẫn còn nợ ông một lời xin lỗi. Cho dù là nó có muộn màng bao nhiêu hay chẳng giúp được gì cho chính ông. Khi sinh thời hay trong hiện tại.
Tôi tiếc là vì vậy.
Còn nhớ năm nào tôi may mắn tìm ra được nhà ông ở thôn Vân Hoàn, Xã Nga Lĩnh, Huyện Nga Sơn ở Thanh Hóa. Và bên hiên nhà ông đã chia xẻ với tôi biết bao câu chuyện về quãng đường mà ông và gia đình đã nhọc nhằn bước qua kể từ ngày ông quyết định rũ áo từ quan ở Hà Nội để trở về quê sinh sống.
Vì ông không thể nào chấp nhận một chế độ hà khắc và một chính sách tàn bạo của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm và Cải Cách Ruộng Đất. Để ai cũng có thể bị cho là phản động. Để người có thể hại người. Anh có thể giết em. Con cái sẵn sàng đấu tố cha mẹ.
Lúc ấy ông đã ăn thọ 90 tuổi. Thế nhưng tinh thần ông vẫn còn rất minh mẫn, đôi mắt ông vẫn sáng ngời mỗi khi nhắc lại những kỷ niệm vui buồn của ngày xưa. Lúc ông cãi tay đôi với ông Hồ Chí Minh ngay tại Quốc Hội về những sai phạm của chế độ đương thời. Hay khi ông phải về quê tự làm nông, đẽo đá nuôi nấng gia đình trong cơn túng thiếu và sự trù dập của chế độ.
Đến một chiếc xe cút kít kéo tay, ông bảo, họ cũng không cho ông sử dụng. Và lẽ ra ông đã bị họ giết mất lâu rồi nếu như người công an được giao cho nhiệm vụ phải xử ông không nỡ ra tay vì ông đã làm một bài thơ rất hay nói về làng quê của chính người công an đó.
Ông bảo cuối cùng cũng nhờ làm thơ mà ông mới sống đến bây giờ.
Cũng như chỉ cần một bài thơ duy nhất mà nay ai cũng biết đến tên ông:
…
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
…
Ông đã kể cho tôi nghe nhiều lắm về nỗi đau để mất người vợ đầu tiên của ông.
Chiều hôm ấy sau khi trò chuyện xong ông đã bảo đứa cháu gái ông dắt tôi lên ngọn đồi gần nhà để tìm lại màu hoa sim tím của năm nào. Nhưng chúng tôi tìm mãi chỉ thấy đây đó lác đác một vài cành hoa sim chưa nở rộ. Nó cũng cùng một màu tím đấy nhưng không biền biệt như trong thơ ông:
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…
Trở về nhà ông trên con đường làng vắng lặng trong buổi chiều tàn, tôi cũng chợt nhận thức ra được rằng chắc phải lâu lắm tôi mới có dịp gặp lại ông. Vì thế trước khi chia tay từ giã tôi đã xin ông viết cho tôi đôi chữ để tôi có thể giữ lại làm kỷ niệm cho riêng mình.
Đưa cánh tay gầy guộc khẳng khiu để cầm lấy cây viết tôi đưa cho ông, ông cười lớn, mắt vẫn sáng ngời bảo rằng ông đâu biết viết gì để tặng tôi.
Tôi vội đáp thưa ông điều gì cũng được.
Thế là cầm trên tay mảnh giấy học trò tay run run ông đã nguệch ngoạc viết tặng cho tôi một dòng duy nhất:
Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài.
Và đấy cũng là những gì mà tôi sẽ luôn nhớ mãi về ông.
Xin gửi đến ông lời cảm ơn chân thành. Cùng với những lời cảm phục sâu sắc nhất.
Thứ Sáu, 19 tháng 3 2010 da lan huong (Pháp quốc)
Thật là sót xa khi nghe tin nhà thơ Hữu Loan đã vĩnh viễn ra đi.Thật là tội nghiệp và thương tiếc cho Ông từ lúc đầu xanh cho đến lúc bạc đầu xuôi tay nhắm mắt.Ông hoàn toàn sống một cuộc sống rất là cơ cực dưới sự kiểm soát của chế độ csvn nếu không muốn nói là chế độ độc tài.Phải chăng khi xưa ông di cư vào Nam thì chắc chắn cuộc đời của Ông không đến nỗi.Xin thành kính chia buồn cùng tang quyến và xin cầu chúc hương hồn của Ông sớm được lên thiên đàng và được về với Chúa.
Thứ Sáu, 19 tháng 3 2010 tradao (Australia)
Trinh Hoi viet bai rat hay, rieng bai nay doc rat la cam dong. Cam dong vi tinh nguoi, vi su chan thanh, vi su cam nhan sau xa van tai cua mot nguoi tre doi voi mot thi nhan cua thoi dai.Cam on.
Thứ Sáu, 19 tháng 3 2010 Tran nguyen Han
Cuộc đời của ông Nguyễn Hữu Loan là điễn hình của những người giàu tình nhân ái và có tài năng đã đi theo phong trào kháng chiến cứu nước. Tuy nhiên tổ chức Việt Minh đã bị Cộng Sản tiếm đoạt công lao và bắt đầu công cuộc thanh trừng, cải cách ruộng đất tàn bạo. Ông đã lần hồi nhận ra sự phi lý của CNCS và cũng trở thành nạn nhân của chính chế độ. Rất nhiều người như ông đã bỏ vào Nam năm 1954 để theo VNCH và đã có đất dụng võ. Chính nhân dân miền Bắc là chịu nhiều đau khổ nhất dưới chế độ CS.
Thứ Bảy, 20 tháng 3 2010 Minh Khue (USA)
Dong y voi nhung y kien cua cac doc gia viet o tren. Rieng Hoi, Hoi da viet mot bai rat hay ve nha tho Huu Loan mac du minh co xem clip ve lan gap giua Hoi va nha tho Hưu Loan trong Asia video.
Hôm thứ Năm 18 tháng Ba, 2010, hộp thư tôi tràn ngập mail bạn bè gửi về với tiêu đề Tác Giả Màu Tím Hoa Sim Đã Ra đi… Thư của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từ Quận Cam, thư của nhạc sĩ Trần Nhật Hiền từ San Jose, thư của Lê Tấn Lộc từ Canada… tất cả thư từ về tin thi sĩ Hữu Loan vừa ra đi đều có kèm theo hình của thi sĩ chụp bên người vợ.
Bức hình đi kèm ghi chú:
Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Tác giả bức ảnh là Hồ Trần.
Bản tin ngắn ký tên Ngân Hà có nội dung như sau:
Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.
Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ.
Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu Tím Hoa Sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.
Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Sự ra đi của Hữu Loan, tác giả bài thơ được nhắc nhở cả hai miền Nam Bắc trong suốt cuộc chiến Việt Nam và cả những năm sau cuộc chiến, có lẽ còn nói và viết nhiều. Nhưng có một vài chi tiết bên lề có lẽ rồi đây sẽ được nói rõ: Bài viết của Ngân Hà cho biết tên người vợ đầu tiên của thi sĩ là Nguyễn thị Ninh và người vợ sau là Nguyễn thị Nhu, thế nhưng bản tin trên tờ Thanh Niên cho biết người vợ trẻ có tên là Đỗ Thị Lệ Ninh “đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn” và ngay tên người vợ sau của thi sĩ cũng khác họ. bài viết ghi bà tên Nguyễn Thị Nhu trong khi chú thích ảnh thì ghi là Phạm Thị Nhu.. Nhưng trong bài Tự Thuật của thi sĩ thì người con gái trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh con ông Lê Đỗ Kỳ. Thi sĩ viết: “Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”
Trong một email của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao tôi được đọc bài trả lời phỏng vấn của báo Nhịp Cầu Thế Giới ở Hungary, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông quen Hữu Loan từ ngày ông vào Khu 4 trong năm 1948 và làm văn nghệ trong Trung Đoàn 9. “Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy Ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục.. Biết anh cũng làm thơ, tôi cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, Tò He, Chiếc Chiếu, Những Làng Đi Qua, Hoa Lúa… Tôi đã có ý định phổ nhạc bài Màu Tím Hoa Sim ngay từ lúc đó…”
Phạm Duy cũng cho biết năm 2006, khi trở về nước, ông có đi xe ôm trong một ngày mưa lạnh đến Thanh Hoá thăm Hữu Loan và có tặng Hữu Loan một video trong đó có phần ông trả lời phỏng vấn về bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà…
Trả lời câu hỏi "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và nhất là "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh thi phẩm, nhưng ca khúc của bác đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao bác lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?” Phạm Duy nói: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh, Anh Bằng phổ nhạc bài thơ Màu Tím Hoa Sim một cách rất tốt nhưng dùng hình thức ‘tiểu khúc’ bình dân ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Bolero, Slow Rock, giản dị dễ nghe, dễ hiểu… Và cũng vì các ông này không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào trong nét nhạc. Còn tôi thì muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5, 7 đoạn, một “chant patriotic. Có thế thôi!”
Trong bài Tự Thuật của Hữu Loan, thi sĩ cho biết “…cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”
“Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Hữu Loan đã viết như thế trong bài tự thuật.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi, nhưng bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông sẽ còn ở lại mãi mãi với chúng ta.
Thi sĩ hải ngoại phân ưu trước sự ra đi của Hữu Loan
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ mà nhiều thế hệ người Việt thuộc lòng đã ra đi tối thứ Năm, 18 tháng 3 tại Thanh Hóa. Mời quý vị theo dõi các phát biểu của ba nhà thơ hải ngoại trước sự mất mát này.
Từ Quận Cam California, nhà thơ Du Tử Lê cho biết:
“Tôi cho rằng đây là một mất mát to lớn, không chỉ đối với gia đình mà còn cả văn học Việt Nam nói chung. Anh Hữu Loan đối với văn học mình có hai di sản.
Di sản thứ nhất là số thơ của anh để lại. Dù số thơ anh chỉ ít thôi nhưng đó là những bài mà tôi cho là sẽ ở vĩnh viễn với văn học của chúng ta, thí dụ Màu Tím Hoa Sim hoặc Đèo Cả.
Di sản thứ hai, cá nhân tôi cho là rất to lớn. Tôi muốn nói đó là di sản về nhân cách, cái cách mà anh ấy ứng xử với đời sống, sau khi anh gặp những khó khăn, như bị trù dập khi anh tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, và anh đã rút về quê hương Nga Sơn của anh, sau đó anh trải qua rất nhiều năm, tôi nhớ là khoảng 5 tới 10 năm; anh đi thồ đá ở trong núi để nuôi con.
Tôi cho đó là một tấm gương, một di sản về sĩ khí của kẻ sĩ, cũng là một di sản rất to lớn.”
Từ thành phố Houston của Texas, nhà thơ Tô Thùy Yên chia sẻ:
“Tôi rất ngậm ngùi, bồi hồi tưởng nhớ một bực tài hoa đã ra đi. Quá trình lâu dài của ông trong trần gian này thì ông đã trải qua một cuộc đời rất vất vả, đau khổ, bầm dập; rất là thương tội cho một bực tài hoa như ông.
Lúc tôi còn ở Việt Nam, có lần ông Hữu Loan có dịp vào Sài Gòn chơi, ông có ghé thăm tôi cùng với nhà thơ Hà Thượng Nhân. Lúc đó ông và ông Hà Thượng Nhân đã 80 tuổi rồi, từ nhà ông Hà Thượng Nhân đâu ở Phú Thọ, đạp xe đạp vào tận đất Gò Vấp của tôi một buổi tối để thăm tôi. Tôi rất cảm động về sự xuất hiện của hai vị đàn anh đó.
Lúc đó tôi nhìn thấy ông là người đàn anh lớn tuổi hơn tôi rất nhiều, người rất khỏe mạnh, quắc thước, giọng nói sang sảng; biểu hiện một tâm hồn, tính tình cương trực, thẳng thắn.
Tôi rất quý trọng ông qua những kỷ niệm khi tôi còn niên thiếu, khi đọc các bài thơ của ông như Màu Tím Hoa Sim, nhất là Đèo Cả. Tôi đã bày tỏ cảm tình của tôi đối với ông, qua những kỷ niệm về các bài thơ tuyệt tác đó của ông.
Tôi rất động lòng khi nghe tin cụ Hữu Loan rời bỏ anh em chúng ta ra đi. Mặc dù sinh tử là việc bình thường của mọi sinh vật, nhưng khi nghĩ đến một bực tài hoa, suốt đời có tấm lòng cho văn chương, nhất là cho thơ; có một cuộc đời khổ sở, vất vả, bầm dập về tinh thần và vật chất. Nghĩ đến điều đó tôi rất ngậm ngùi, đau xót, và xin có lời chia buồn gởi đến gia đình và cầu chúc cho cụ yên vui nơi cõi vĩnh hằng.”
Từ thành phố Montreal của Canada, nhà thơ Luân Hoán cho biết:
“Khi nghe tin nhà thơ Hữu Loan mất, tôi đã loan tin trên trang web của tôi để anh em biết.
Cũng ngay đêm thứ Sáu, tôi có viết tặng ông Hữu Loan theo kiểu nhật ký trong ngày như thế này:
Rừng sim tồn tại muôn đời
Riêng nụ thơm nhất vừa rời thế gian
Xác di cư về suối vàng
Danh người và nốt nhạc vàng thiên thu
Trời đêm không quá âm u
Nhưng nhìn bốn hướng gió mù mịt bay
Vẩn vơ hát nhẩm vài giây:
“Áo anh sứt...”(cả đường may) mất rồi!
Tôi viết chơi mấy câu trong trang nhật ký của tôi vậy thôi
|
 |
sontunghn
member
REF: 527858
03/21/2010
|

Người nhuộm tím thi đàn bằng màu hoa Sim
Tác giả: Hồ Bất Khuất
Khi xe của chúng tôi đi qua một làng quê, người ngồi bên cạnh tôi thì thầm: "Hình như nhà thơ Hữu Loan kìa". Theo tay anh chỉ, tôi thấy một người đàn ông trên 60 tuổi đẩy một chiếc xe thồ đầy đá. Chiếc U-oát chạy nhanh quá, tôi không nhìn rõ mặt người đẩy xe, nhưng thấy dáng ông đi tự tin và vững chãi...
Nhìn thấy Nhà thơ Hữu Loan, sau niềm vui gặp gỡ, tôi bỗng lo lắng mơ hồ. Đỗ Phủ đã nói "người thọ bảy mươi xưa nay hiếm", nay ông đã chín mươi tuổi có dư, liệu còn sống được bao lâu nữa? Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, ông mỉm cười và nói: "Tôi vẫn còn uống được rượu và dắt cháu đi dạo; khi rỗi rãi, còn tìm câu chữ để đối đáp lại bà Hồ Xuân Hương"
Người tôi mong gặp từ thủa học trò
Khi học lớp chuyên văn của tỉnh Nghệ An, tôi chứng kiến cánh học trò chuyền tay nhau chép bài thơ Màu tím hoa sim và có cảm xúc rất lạ. Sau đó, trong những lần đi rừng hái củi, nghe mấy người bạn khe khẽ hát: "Ôi những đồi hoa sim, những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt..." tôi xúc động rất mạnh. Cái tên Hữu Loan găm vào tôi từ ngày đó.
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/4/ 1916 tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936, đã từng giữ chức Phó Chủ tịchUỷ ban khởi nghĩa Nga Sơn,Uỷ viên Văn hoá trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là chiến sỹ một đơn vị ở Liên khu 4, chủ bút báo "Chiến sỹ". Sau năm 1954, ông làm ở báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam . Sau đó, ông trở về quê làm ăn sinh sống và nuôi dạy con cái. Nhà thơ đã ra đi ở tuổi 95, nhưng thơ của ông thì còn lại mãi.
Ngoài chuyện bài thơ hay ra, người ta còn kể nhiều chuyện khá ly kỳ về Hữu Loan khiến tôi tò mò, mong ước được gặp và trò chuyện với ông càng ngày càng lớn. Nhưng là một học trò xứ Nghệ, gặp ông vào những năm 70 của thế kỷ trước, quả là không dễ.
Không gặp được ông, tôi bỏ công sưu tầm và nghiên cứu thơ ông. Công sức bỏ ra khá nhiều, nhưng ngoài Màu tím hoa sim ra, tôi cũng chỉ biết thêm được Đèo cả.
Thời gian cứ thế trôi, tôi tốt nghiệp đại học rồi đi làm báo. Công việc và chuyện "cơm áo gạo tiền" cuốn đi mải miết. Bạn bè cùng học, cùng uống rượu thành nhà văn, nhà thơ; họ in sách tặng tôi xếp đầy cả tủ. Bản thân tôi cũng bỏ tiền mua những tập không được tặng, nhưng tôi tìm mãi vẫn không thấy tập thơ nào của Hữu Loan. Tôi vẫn khắc khoải, mong ngóng một điều gì đấy.
... Vào những năm 80 của thế kỷ trước, trong một lần đi công tác tại Thanh Hoá, khi xe của chúng tôi đi qua một làng quê, người ngồi bên cạnh tôi thì thầm: "Hình như nhà thơ Hữu Loan kìa". Theo tay anh chỉ, tôi thấy một người đàn ông trên 60 tuổi đẩy một chiếc xe thồ đầy đá. Chiếc U-oát chạy nhanh quá, tôi không nhìn rõ mặt người đẩy xe, nhưng thấy dáng ông đi tự tin và vững chãi. Cái tên - Hữu Loan - "làm tổ" trong lòng người yêu thơ hơn nửa thế kỷ nay. Tôi thầm hứa với mình là sẽ tìm cách gặp được tác giả Màu tím hoa sim.
Mãi đến gần đây, tôi mới có dịp thực hiện mơ ước từ ngày bé của mình. Vào một ngày đẹp trời, có người rủ tôi đi thăm nhà thơ Hữu Loan. Tôi mừng húm vì nghĩ rằng, người này có mối quan hệ thân thiết với nhà thơ nổi tiếng. Nhưng hoá ra không phải vậy. Anh cũng chỉ biết nhà thơ Hữu Loan quê ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Dẫu sao thì cũng có địa chỉ rồi, lên đường thôi.
Nếu rất muốn, cứ tìm là gặp
Cách thành phố Thanh Hoá khoảng 26 km, trên quốc lộ 1A (hướng Hà Nội - Vinh), có biển chỉ dẫn "Nga Sơn" đi về phía biển. Theo con đường này đi được chừng 2 km, chúng tôi hỏi 2 cô gái đi xe máy cùng chiều. Thật may, 2 cô này quê ở Nga Lĩnh và biết nhà của thi sĩ Hữu Loan. Hai cô tình nguyện dẫn đường cho chúng tôi. Trước khi về nhà mình, các cô nói: "Đi theo đường này khoảng vài trăm mét, thấy cái nhà 2 tầng, ông Hữu Loan ở đó."
Tuy đã tìm được gần đến nơi, nhưng trong tôi cảm xúc lẫn lộn. Tôi chưa tưởng tượng được nhà thơ Hữu Loan hơn 90 tuổi, ở trong một ngôi nhà tầng sang trọng, lên xuống cầu thang như thế nào. Và nữa, ông có thể không có nhà. Nếu ở nhà ông có thể không tiếp chúng tôi, vì trước khi đến đây chúng tôi chẳng liên hệ, chẳng có thông tin gì cả, ngoại trừ cái địa chỉ ghi ngệch ngoặc trên tờ lịch cũ.
Nhưng mọi sự không như tôi tưởng. Cái nhà 2 tầng hoá ra không phải của gia đình Hữu Loan, mà chỉ là một cái nhà nổi bật ở gần đó. Nhà thơ Hữu Loan ở trong một ngôi nhà cấp 4 chật chội, cũ kỹ; bù lại, có mảnh vườn khá rộng, cây cối xanh tốt và một ao cá nhỏ xinh.
Cho đến lúc này, người ta vẫn chưa biết nhà thơ Hữu Loan đã viết tất cả bao nhiêu bài thơ. Nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Quần Phương thì khẳng định: Hữu Loan viết tất cả 24 bài. Một số nhà nghiên cứu khác nói ông viết được khoảng 40 bài. Một người con trai của ông đang tìm tòi, sưu tập bản thảo viết tay tất cả những bài thơ của ông. Anh chưa chính thức công bố vì chưa hoàn chỉnh, nhưng theo anh, toàn bộ sáng tác của bố anh không quá 60 bài thơ.
Tôi hồi hộp bước vào và thấy một ông già tóc bạc trắng. Đấy là nhà thơ Hữu Loan; ngồi cạnh một phụ nữ đã cao tuổi nhưng trông vẫn khoẻ mạnh, là vợ nhà thơ. Thấy chúng tôi vào, vợ chồng nhà thơ không ngạc nhiên, không tỏ ra vui mừng, đon đả, nhưng thân mật. Ông bà không hỏi chúng tôi là ai, đến đây làm gì, chỉ mời nước và quay quạt về hướng chúng tôi. Có lẽ những cuộc viếng thăm của các nhà văn, nhà báo, hay đơn giản chỉ là của những người yêu thơ đã trở nên quen thuộc với ông bà.
"Màu tím hoa sim" qua lời "chính chủ"
Cố nén xúc động, tôi chỉ ngồi im nghe mà hầu như không dám hỏi gì, cũng không ghi chép nốt. Nhưng những gì Nhà thơ Hữu Loan nói lại hiện rõ trong tôi.
... Chàng gia sư tài hoa và cô học trò xinh đẹp đã cảm mến nhau ngay từ khi chàng đặt chân đến nhà nàng. Chẳng thế mà nàng tự tay giặt là quần áo cho chàng, mặc dù trong gia đình có hàng chục người được thuê để lo việc nhà. Dù đã thầm yêu nàng tha thiết, nhưng vì "không môn đăng hộ đối" nên chẳng dám ngỏ lời. Nhưng người quyết liệt lại là nàng. Nàng chủ động bắt chuyện với chàng, đưa chàng đi dạo ở những dải đồi nở đầy hoa sim tím. Rồi nữa, áo nàng mặc tím màu hoa sim.
Trong những ngày chàng lãnh đạo khởi nghĩa ở địa phương thì nàng cũng tham gia công tác quần chúng. Khi chàng làm việc ở Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá thì nàng là một trong những người tích cực vận động nhà giàu tham gia hưởng ứng "Tuần lễ vàng". Cái không khí phơi phới, lạc quan của những đầu cách mạng thành công đã khiến cho tình yêu của họ vốn đã lãng mạn, càng thêm lãng mạn.
Trước một tình yêu chân thành, mãnh liệt, tinh tế và quả cảm của người con gái đẹp; thông minh, đa cảm, tài hoa như Hữu Loan không thể không tiếp nhận. Đây là hạnh phúc mà không phải ai cũng có được: Yêu và được yêu, rồi chính bố mẹ cô đứng ra làm đám cưới.
Hữu Loan cưới vợ trong một lần về phép ngắn ngủi, rồi lại ra đi, mải miết theo đoàn quân trong cuộc trường chinh chống Pháp. Nhưng cuộc đời thật khó lường, "không chết người trai khói lửa, mà chết người con gái hậu phương". Người vợ trẻ đã mất khi mới 17 tuổi, số ngày sống với chồng chỉ tính trên đầu ngón tay.
Nhận được tin dữ, Hữu Loan từ đơn vị trở về, thấy mẹ ngồi bên nấm mồ, bình hoa ngày cưới đã thành bình hương. Trong tim Hữu Loan - người lính, người tình, người chồng, người con dâng lên những đợt sóng trào. Tình cảm thiết tha, mãnh liệt và nỗi đau sâu thẳm đã sản sinh ra bài thơ "Màu tím hoa sim". Tất cả những tình tiết, sự kiện, con người trong bài thơ đều là thật. Có lẽ đây chính là nguyên nhân để bài thơ trở nên bất tử.
Cả cuộc đời dài gần trăm năm của mình, Hữu Loan làm thơ không nhiều, không in tập lớn, tập bé; nhưng chỉ cần với một "Màu tím hoa sim", ông đã nhuộm tím thi đàn Việt Nam. Cái màu tím bình dị của một loài cây mọc lúp xúp ở đồi núi Việt Nam đã trở thành một trong những biểu tượng đẹp của thơ ca.
Chỉ là chuyện đời thường mộc mạc
Gia đình ông Lê Đỗ Kỳ là một gia đình trí thức cách mạng. Ông là kỹ sư canh nông, đã từng giữ chức Tổng Thanh tra canh nông Đông Dương. Vợ là con một nhà khoa bảng đất Thanh Hoá. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông Kỳ là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên.Vợ ông trở thành cán bộ của Hội Phụ nữ. Ba người con trai đầu của ông đi bộ đội. Người con cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh trên đồi Him Lam ngay trước giờ chiến thắng Điện Biên. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư. Người con thứ ba Lê Đỗ An chính là Nguyễn Tiên Phong, nguyên bí thư TW Đoàn, nguyên Phó Ban Dân vận TW. Người con thứ tư là Lê Đỗ Thị Ninh, vợ của nhà thơ Hữu Loan, nhân vật chính của bài thơ "Màu tím hoa sim".
Người ta đã làm khổ nhà thơ Hữu Loan, đồng thời cũng đã dành cho ông những lời lẽ tốt đẹp nhất. Tôi đến nhà ông, chỉ ngồi ngắm nhìn ông, nghe ông kể chuyện, nghe ông đọc thơ. Ở tuổi ngoài chín mươi, vẫn với ánh mắt cười rất hóm, nhà thơ Hữu Loan chậm rãi kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời mình.
... Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng rất sùng bái chuyện học hành. Ngày bé, tôi tự học là chính. Năm 1938, tôi ra Hà Nội thi, gặp gỡ Nguyễn Đình Thi từ dạo đó. Trở về Thanh Hoá, tôi làm gia sư, vừa để kiếm sống, vừa để học thêm, vừa có điều kiện tham gia cách mạng.
Khi tôi đến dạy học ở nhà một người quyền quý, cô con gái của gia chủ nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ. Tôi bị ánh mắt và gương mặt đẹp thánh thiện ám ảnh, nhưng không dám nghĩ tới chuyện xa hơn. Nhưng thật may mắn, tôi là chàng trai nghèo nhưng lại được cô học trò xinh đẹp là con của một người sang trọng và giàu có yêu. Chúng tôi đã được yêu nhau và hạnh phúc, tuy rất ngắn ngủi. Sau khi Lê Đỗ Thị Ninh chết, tôi nghĩ là mình chẳng bao giờ lấy vợ nữa, ấy thế mà...
Ông dừng lời và đưa mắt tình tứ nhìn vợ là bà Phạm Thị Nhu ngồi bên cạnh. Đây là người phụ nữ gắn bó với ông suốt cả cuộc đời, sinh cho ông 10 người con, cùng ông chia sẻ (ngọt bùi thì ít, đắng cay thì nhiều, nhưng niềm vui rất là sâu lắng). Bà Nhu nhìn nhà thơ Hữu Loan âu yếm rồi nhẹ nhàng kể:
... Tôi yêu ông này vì ngày ấy hay ra nghe trộm ông giảng Truyện Kiều cho học sinh. Ông ấy giảng hay lắm.Trọng tài rồi mê người lúc nào không rõ nữa. Dù ông ấy hơn tôi những 20 tuổi, nhưng tôi vẫn mê ông và khiến ông bỏ ý định không lấy vợ nữa. Ông ấy lại còn viết bài thơ "Hoa Lúa" nịnh tôi nữa chứ.
Nhà thơ Hữu Loan dường như trở lại thời tráng niên, nhìn vào xa xăm rồi tiếp lời vợ: "Màu tím hoa sim" là khóc người vợ đã chết, còn "Hoa Lúa" là bài thơ viết cho bà đang ngồi đây!
"Ông ấy nhớ toàn bộ bài này đấy, bảo ông ấy đọc cho mà nghe!" Vợ thi sĩ thì thầm, nhưng cũng đủ cho tất cả mọi người trong căn nhà nghe rõ.
Bằng một chất giọng khàn, ấm, nhà thơ Hữu Loan đọc bài "Hoa Lúa". Bài thơ khá dài, nhưng ông đọc thong thả, khi thì nhìn ra khoảng sân có giàn mướt đơm hoa, kết trái; khi thì nhìn về phía người đàn bà đã gắn bó cùng ông hơn nửa thế kỷ. Có hạnh phúc nào hơn khi người mình say mê trở thành chồng mình, làm thơ tình tặng mình, thỉnh thoảng lại dồn hết tâm trí vào đó và tha thiết đọc lên.
Tôi thấy cái hạnh phúc bình dị này của vợ chồng nhà thơ là vô giá. Có lẽ chính điều này khiến ông sống thanh thản ở một làng quê nghèo và nhiều ân tình?
"Thơ tôi làm ra không phải để bán"
Thật khó mà tưởng tượng hết những khó khăn mà Hữu Loan vượt qua để duy trì cái gia đình có 12 miệng ăn giữa vùng quê nghèo khó trong những năm chiến tranh ác liệt của thế kỷ trước. Hơn nữa không chỉ phải đối phó với những khó khăn về vật chất, mà còn phải đối đầu với nhiều sự rắc rối khác. Nhiều người trong bộ máy chính quyền địa phương lúc ấy không hiểu ông, còn gây thêm cho ông những khó khăn như tịch thu xe đạp của ông với lý do ...phụ tùng không đồng bộ; xúi giục những người khai thác đá không bán cho ông...
Bằng nghị lực và sự dẻo dai hiếm có cả về tinh thần lẫn thể chất, Hữu Loan đã vượt qua tất cả mọi thử thách, tai ương. Ông đã sống, làm việc bền bỉ, trung thực, ngay thẳng để vợ con yên bình, vững tâm mà sống, mà lớn. Người ta không bán đá cho ông thì tự tay ông khai thác và chở đi bán. Một mình ông gần như đã san bằng một ngọn núi. Ông cũng đã trở thành "chuyên gia" mò cua, bắt ốc ở nơi những cây cói mọc lên để thành chiếu Nga Sơn nổi tiếng. Có lẽ trước khi khăn gói rời Hà Nội, ông đã lường trước mọi khó khăn nên không điều gì có thể làm ông gục ngã.
Nhưng theo ông, tình yêu và trách nhiệm với vợ con mới là nguồn sức mạnh lớn lao giúp ông đứng vững giữa cuộc đời. Ông bảo: "Tôi là người ương bướng, hay cãi. Ở lại làm trong cơ quan, đoàn thể, khó mà dung hoà với mọi người được. Nếu vậy thì làm sao nuôi nổi đàn con? Nghĩ vậy, tôi thấy về với vợ con là tốt nhất."
10 người con của ông đã trưởng thành, có người là giáo viên, có người là kiến trúc sư, có người là nông dân... Bây giờ mọi thứ qua rồi nên ông nhớ lại mọi thứ, nhẹ nhàng, thanh thản.
Cách đây mấy năm, Công ty Vitek đặt vấn đề xin được chuyển nhượng tác quyền bài thơ "Màu tím hoa sim" 100 triệu đồng. Lúc đầu ông không chịu với lý do "thơ tôi làm ra không phải để bán", nhưng khi thấy có những người con vẫn còn khó khăn về vật chất, ông đã đồng ý. Sau khi nộp thuế 10 triệu đồng, ông mang 60 triệu chia cho các con, chỉ giữ lại 30 triệu cho tuổi già.
Hai vợ chồng nhà thơ Hữu Loan sống trong ngôi nhà nhỏ bé, ấm cúng, xung quanh là vườn cây xanh tốt. Không xe hơi nhà lầu, không hội họp, phê bình, kiểm điểm, không đọc báo cáo... Hàng ngày ông trò chuyện với vợ, đọc thơ và chơi với các cháu. Người nhuộm tím thi đàn Việt Nam sống bình dị giữa làng quê của mình với đôi mắt cười rất hóm.
Tôi mong có dịp trở lại và ngồi uống rượu với ông, nhưng hôm nay ông đã ra đi vĩnh viễn. Tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài việc viết đôi dòng về ông và mơ về màu tím mới sẽ làm lóng lánh làng thơ Việt Nam.
Biết tin nhà thơ Hữu Loan ra đi, một độc giả Tuần Việt Nam gửi bài thơ tiễn biệt ông. Chúng tôi xin giới thiệu cùng độc giả:
Vĩnh biệt nhà thơ Hữu Loan
Tác giả: Khương Duy
Cách trở phương trời không về thắp được nén hương
Cho người mới lên đường bỏ lại màu sim tím
Dẫu sinh tử lẽ đời rồi phải đến
Vẫn nghe buồn len lén cõi tâm tư
Kẻ đôi mươi, người chín chục tuổi dư
Duyên nợ gì ư? Chỉ một câu thơ cũ
Câu thơ có chàng trai nghèo trong quân ngũ
Có người vợ hiền chết vì khói lửa chiến tranh
Có mái đầu ngan ngát tóc xanh
Có khói hương vờn bên cành sim tím
Những vần thơ đã nằm trong ba lô người lính
Đã chắp lời cho tiếng hát vút cao
Đã đem hi vọng về từ tận đáy nỗi đau
Đã thắp mãi một tình yêu bất diệt
Vần thơ ấy cũng làm nên cuộc đời oan nghiệt
Để người thơ phải đoạn tuyệt với thơ
Để dở dang thời trai trẻ mộng mơ
Để xác xơ chiếc xe gầy sau bao ngày nắng mưa thồ đá
Thôi, đời người chỉ là chiếc lá
Đắng cay hay ngọt bùi, một ngày gió cũng thổi rơi
Chín mươi lăm tuổi đời, đã đến lúc nghỉ ngơi
Đừng buồn nữa những người yêu sim tím
Đêm nay, khi cơn gió đầu hè đã chớm
Người đang sang sảng đọc Đường thi bên Phùng Quán, Trần Dần...
Chén rượu nồng của những bậc thi nhân
Mặc kệ bao nhọ nhem nơi hồng trần dương thế
Rồi gió sớm thu về
Cỏ sẽ vàng chân mộ chí...
Hà Nội 19/3/2010
|
 |
sontunghn
member
REF: 527875
03/21/2010
|

Nhạc sĩ Phạm Duy: 'Anh Hữu Loan đi, tôi chỉ tiếc thương cái tài'
Tâm sự với Đất Việt về sự ra đi của tác giả Màu tím hoa sim, nhạc sĩ Phạm Duy, người đã phổ nhạc rất thành công tác phẩm này, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết: Anh Hữu Loan đi tôi chỉ tiếc thương cái tài”
- Hành trình phổ nhạc từ bài thơ “Màu tím hoa sim” của thi sĩ Hữu Loan đến bản nhạc “Áo anh sứt chỉ đường tà” gắn bó với tên tuổi Phạm Duy đã được ông thực hiện như thế nào?
- Tôi với anh Hữu Loan quen nhau năm 1948 ở Cầu Bố, Thanh Hóa, lúc đó chúng tôi làm việc dưới quyền tướng Nguyễn Sơn. Một lần nghe anh ấy đọc bài thơ Màu tím hoa sim, tôi thích lắm, tôi muốn phổ nhạc ngay. Nhưng đến khi phổ nhạc xong, vì một vài lý do tôi không phổ biến bài hát. Sau này tôi vào Sài Gòn sinh sống, và tới năm 1971 mới chính thức tung ra bài hát. Khi đó tôi đổi tên bài hát thành Áo anh sứt chỉ đường tà. Nhờ hai giọng ca Thái Thanh và Duy Quang, thiên hạ biết nhiều đến bài này, họ thích lắm. Bài hát thành công ngay từ thời đó và cho đến bây giờ tôi vẫn thấy người ta hát hoài.
- Tại sao ông lại chọn tựa đề bài hát của mình là một câu ca dao?
- Bài thơ Màu tím hoa sim cũng có hai người khác phổ nhạc, Dzũng Chinh với tên Những đồi hoa sim và Anh Bằng thì lấy tên là Chuyện hoa sim. Nếu tôi để nguyên tên có thể người ta sẽ nhầm lẫn. Vả lại Áo anh sứt chỉ đường tà là câu chính trong bài thơ của anh ấy, tôi có mạo muội thêm bớt đâu nào!
- “Áo anh sứt chỉ đường tà” đã làm toát lên sự hào hùng và bi thương, cái tinh thần chính của "Màu tím hoa sim". Lý do nào ông quyết định phổ nhạc cho bài thơ này?
- Tôi nghĩ, bổn phận của người nghệ sĩ trong thời chiến phải biến cái bi thành cái hùng. Bài thơ của anh Hữu Loan có cả hai yếu tố đó và trong bản nhạc Áo anh sứt chỉ đường tà người ta cũng nghe được cả hai tiếng: tiếng hùng và tiếng bi. Tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”, và bài thơ cho tôi cảm hứng ấy. Nhưng hơn cả, tôi thích bài thơ và tôi đã đã phổ nhạc theo bổn phận của người nghệ sỹ.
- Về Việt Nam đã 5 năm. Ông đã gặp lại nhà thơ Hữu Loan?
- Năm 2006, tôi có dịp đi ngang qua tỉnh Thanh Hóa, nghe người ta nói anh Hữu Loan sống ở trong một cái làng, thế là tôi đi xe ôm vào thăm. Anh em gặp nhau trong hoàn cảnh cả hai đã già. Lần đó gặp nhau rất vui, anh Hữu Loan tiếp đón niềm nở lắm. Chúng tôi ôn lại dăm ba câu chuyện rồi chia tay nhau. Lúc đó tôi thấy anh Hữu Loan đã hơn 90 tuổi mà hãy còn sống và còn khoẻ mạnh thì mừng lắm. Nhà cửa nhìn cũng khang trang, không đến nỗi nghèo nàn như người ta nói. Có lẽ khi ấy thi sĩ đã được phục hồi, được an nhàn không phải lao động nữa thành thử anh ấy thoải mái lắm.
- Bây giờ khi nghe tin Hữu Loan đã mất, ông có suy nghĩ gì về cái gọi là “sinh, lão, bệnh tử” trong cuộc đời?
- Anh Hữu Loan mất thì mình tiếc thương cái tài của anh ấy. Chứ còn anh ấy 95 tuổi, mà chết đi thì mình mừng chứ! Bởi nếu như tôi không nhầm thì lúc này anh ấy đã bị lẩm cẩm rồi. Mà người già, như tôi chẳng hạn, năm nay cũng đã 90 rồi, chỉ thua anh Hữu Loan vài tuổi thôi, đều sợ nhất một điều là về già mà bị lẩm cẩm.
- Nhưng nhạc sĩ còn rất minh mẫn, nhiều người gọi Phạm Duy là “ông già hi-tech” và vẫn miệt mài lao động nghệ thuật, như là phổ nhạc cho hơn 3000 câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du thành “Kiều Ca” đó thôi!
- Không! Tôi là một chàng thanh niên mới có 90 tuổi. Tôi tập thể dục, tôi không uống rượu, tôi không hút thuốc lá, cả một đời tôi trong sạch. Người ta muốn nói nghệ sĩ bê bối ra sao thì là đang nói về người khác, còn tôi là nghệ sĩ rất trong sạch.
Tôi đã hoàn thành Kiều ca nhưng chưa mượn được ca sĩ để thu thanh. Muốn hát Kiều ca là phải mượn ca sĩ lớn, bởi tác phẩm của tôi gồm có bốn phần, phải thâu thanh suốt bốn tiếng đồng hồ mà tôi thì chưa có tiền để thuê nghệ sĩ. Hơn nữa bên Phương Nam chưa xin phép nên tác phẩm này chưa đến được với công chúng. Năm nay tôi 90 tuổi rồi, nếu chưa làm được tác phẩm này, sang năm tôi chết đi, theo chân anh Hữu Loan thì tôi cũng hơi tiếc.
Hai người bạn già chia tay nhau trước hiên nhà, giờ người còn, người mất. Ảnh: Nhân vật cung cấp
- Nhưng nghe người nhà nói tuần sau nhạc sỹ sẽ qua Mỹ. Vậy dự án này của ông sẽ hoãn đến khi nào?
- Dự án thì vẫn ở đó, tôi vẫn kiếm người. Còn việc tôi sang Mỹ, tôi chỉ qua bên đó chữa bệnh, cái bệnh đau ruột đã khá lâu rồi nhưng chữa mãi không khỏi, nên có khi qua bên đó lại chữa hết. Tôi đã về đây 5 năm rồi, tôi không muốn bước chân qua Campuchia hay Singapore chứ đừng nói là về hẳn bên Mỹ. Tôi là người Việt Nam, đến cuối cùng tôi luôn muốn được sống chết ở Việt Nam.
- Cảm ơn nhạc sĩ rất nhiều về những chia sẻ!
|
 |
sontunghn
member
REF: 527876
03/21/2010
|

Nhà thơ Hữu Loan trong mắt bạn bè
Sự ra đi của nhà thơ Hữu Loan ngày hôm qua đã khuấy động làng thơ Việt Nam. Tưởng nhớ người bạn thơ của mình, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nói: “Chỉ bằng hai bài thơ Đèo cả và Màu tím hoa sim, nhà thơ Hữu Loan đã ghi tên mình vào nền thơ hiện đại. Ông ra đi chắc rằng thanh thản lắm bởi đã sống vững vàng cả một cuộc đời gian lao, trầm luân nhưng luôn được sống với mình, là chính mình”.
Cách tân từ khi mới viết
Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhận xét: "Hữu Loan là một trong những người có cá tính sáng tạo độc đáo trong nền thơ đương đại của Việt Nam". Còn nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì cho rằng không thể thiếu tên Hữu Loan khi nhắc về những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ chống Pháp.
“Hữu Loan đã ghi tên mình với công chúng bằng thơ chứ không phải bằng những câu chuyện về thân phận khổ nạn của mình”, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhắc đi nhắc lại điều này. Trên thực tế, Hữu Loan là nhà thơ nổi tiếng duy nhất cả đời không in một tập thơ nào nhưng vị trí của ông trong làng thơ đương đại Việt Nam lại không thể phủ nhận.
Theo Phạm Xuân Nguyên, với hai bài thơ Đèo cả (1947) và Màu tím hoa sim (1949), Hữu Loan chính thức ghi tên mình vào làng thơ đương đại. Đèo cả ra đời giữa mạch thơ chung ca ngợi kháng chiến, nhưng có nét hào hùng riêng. Nhà thơ trẻ Lê Thiếu Nhơn cho rằng: “Hữu Loan là người cách tân từ khi bắt đầu viết”. Trong khi đó, Màu tím hoa sim là tiếng thơ về bi kịch cá nhân vang lên giữa những giọng thơ về cái ta, cái chung. Phạm Xuân Nguyên nhận định, Hữu Loan chính là người cách tân sớm nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Công chúng thường biết tới Đèo cả, Màu tím hoa sim, và trên thực tế Hữu Loan không công bố nhiều sáng tác của mình. Nhưng những người trong giới khi đọc Hoa lúa, Đêm, thì nhận thấy giá trị về mặt thi ca của những tác phẩm này cũng không thua kém.
Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng, khác với Huy Cận, Xuân Diệu đều trở thành nhà thơ rồi mới là chiến sĩ, Hữu Loan theo kháng chiến rồi mới viết những bài thơ đầu tiên tại nơi bom lửa.
Luôn là chính mình
Nổi tiếng vì những bài thơ đầu tiên viết ra, cuộc đời Hữu Loan cũng gặp rất nhiều ghềnh thác. Ông từng tham gia Việt Minh từ rất sớm và trở thành ủy viên Ủy ban lâm thời Thanh Hóa, sau đó tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp, công tác tại báo Văn nghệ.
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, Nga Sơn (Thanh Hóa). Ông từ trần hồi 19h30 ngày 18/3 tại nhà riêng ở Thanh Hóa. Tang lễ được Hội nhà văn Việt Nam phối hợp với gia đình tổ chức ngày 19/3.
Nhưng vì những lý do cá nhân, ông rời đô thành trở về quê sống cuộc đời của một người nông dân bình thường. Tuy nhiên, “hoàn cảnh, số phận riêng của Hữu Loan chỉ nói lên tính cách của ông chứ không vì nó mà ông thêm nổi tiếng”, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định.
Ông Phạm Xuân Nguyên dành những lời đầy trân trọng để nói về nhà thơ này: “Hữu Loan là một con người cương cường, dám sống cho những điều mình tin, mình yêu và mình nghĩ”. Cũng theo Phạm Xuân Nguyên, Hữu Loan “ra đi chắc rằng thanh thản lắm, bởi đã sống vững vàng cả một cuộc đời gian lao, trầm luân nhưng luôn được sống với mình, là chính mình”
Nói về những mâu thuẫn giữa cuộc đời thật và thơ, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn nhận xét, nếu mỗi bài thơ ông viết ra rất nhanh thì biến chuyển của cuộc đời Hữu Loan lại vô cùng chậm chạp. Ông thờ ơ với mọi khen chê của người đời. Chính vì điều đó, Lê Thiếu Nhơn cho rằng, những người viết trẻ như anh và những người cầm bút nói chung đều phải học một điều từ ông: quyết liệt tới cùng trong sự lựa chọn của mình.
Nhà thơ Hữu Thỉnh sau khi dự đám tang của ông từ Thanh Hóa trở ra nhận xét: Người dân ở đây coi Hữu Loan như người đại biểu tinh thần của mình. Ông nhận được tình cảm vẹn toàn của quê hương, bởi cả đời ông sống thanh bạch.
Bài thơ Màu tím hoa sim được viết từ chính những kỷ niệm của tác giả với người bạn đời của mình. Người bạn đời ấy không may mất sớm trong một cơn mưa lũ từ những năm 1949, sau đám cưới chưa đầy hai tháng. Bài thơ được viết trong ngày ông nghe tin dữ đó khi đang ở chiến trường. Bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ thơ, nhưng thành công nhất là ca khúc Áo anh sứt chỉ đường tà của nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 2004, Màu tím hoa sim được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (ViTek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.
Sen Nguyễn
|
 |
sontunghn
member
REF: 535402
04/24/2010
|

Hữu Loan và những người đàn bà thứ hai
Kỳ I: Yêu ai cũng có thơ tặng
Ít người biết, Hữu Loan có một người con riêng. Trong cuộc đời lận đận nhưng tài hoa của ông, xuất hiện không ít những bóng hồng, nhưng ông vẫn trọng thị và gắn bó suốt đời với vợ - bà Phạm Thị Nhu, người phụ nữ tần tảo vì chồng vì con mà ông đã tặng bà câu thơ “tóc dài vương hoa lúa”.
Nhà thơ hai lần đặc sắc
Đêm 18-3, tôi ngồi nghe chương trình độc tấu ghita của nghệ sĩ Văn Dỵ ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Cứ thấy nóng ruột mà không biết chuyện gì. Văn Dỵ vừa biểu diễn xong bài cuối cùng, tôi vừa mở máy ra, thì đúng lúc Đán báo tin, cha anh vừa mất lúc 18giờ45. Anh đang trên đường từ Hà Nội về nhà. Tôi vội báo tin.
Người đầu tiên phải gọi là ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – nhà thơ Hữu Thỉnh, vì chính ông sẽ phải chuẩn bị một bài điếu văn và thế nào ông cũng đến với người mất như trước nay ông vẫn làm thế. Người thứ hai là nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Chủ tịch Hội, Tổng biên tập báo Văn Nghệ, bởi thế nào báo cũng phải có vài bài về hội viên này...
Anh Hữu Thỉnh kể, chưa bao giờ có một lễ tang cập rập đến thế. Lại đang bận, bận không thể tưởng tượng được. Nhưng cũng như bao đám tang khác, và với đám tang này, thế nào cũng xếp tất cả lại để đi bằng được. Nhận tin trong đêm, sáng ra đã phải lên đường ngay mới kịp. Còn điếu văn ư? Vừa đi đường vừa nghĩ, được ý nào lại nguệch ngoạc lên giấy kê trên đùi.
Đến Hà Trung, anh đề nghị hai người đi cùng là nhà thơ Nguyễn Hoa, Phó trưởng ban Hội viên và nhà văn Đặng Ái, phụ trách trang tin điện tử Hội Nhà văn, nguyên là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, mượn cho anh một cái bàn ăn để viết. Gạch, xóa, đọc lại, lại lấy lại cụm từ đã xóa, thêm câu này, thêm đoạn nữa. Xong.
Cũng lúc ấy, ở nhà, Hữu Đán (con trai út của Hữu Loan) cầm trên tay bài điếu văn do xã chuẩn bị. Bằng những câu mộc mạc, xã cũng kể Hữu Loan đã tham gia cách mạng thế nào, lại nói mắc bệnh hiểm nghèo được gia đình và các thầy thuốc tận tình cứu chữa nữa chứ...
Đoàn nhà văn Việt Nam vừa vào, Đán đã mời đại diện chính quyền xã cùng mình ra đón và trao đổi về chuyện điếu văn. Ông đại diện xã còn trẻ cũng thành thật nhận rằng, hiểu biết của mình có hạn, đề nghị nhà thơ Hữu Thỉnh cáng đáng giúp cho.
Cũng như bao nhiêu hội viên khác mà Hữu Thỉnh đã tự tay viết và đọc điếu văn, ông luôn có con mắt thấu thị, thấu suốt con người và sự nghiệp của hội viên mình, nên bao giờ cũng có những lời đánh giá chí lí, chí nghĩa, chí tình.
Với Hữu Loan là: “Ông là nhà thơ hai lần đặc sắc. Đặc sắc ở hồn quê và đặc sắc trong khí phách... Thơ Hữu Loan là sở hữu tinh thần hôm qua, hôm nay và mai sau của chúng ta”.
Lễ tang ông cũng độc đáo, như ông độc đáo trong lễ cưới mình với bà Lê Đỗ Thị Ninh. Ông theo đạo Phật (tuy chẳng đi lễ chùa bao giờ) nên trong đám tang cũng có phường kèn bát âm theo phong tục, sống dầu đèn, chết kèn trống.
Có điều lạ là, có tới ba dàn kèn đồng với đủ loại kèn, trống con, trống cái, lễ phục trắng toát từ đầu tới chân của mấy xứ đạo Thiên Chúa đến tấu nhiều bài kèn tiễn biệt ông. Có một dàn nhạc với trang phục sang trọng, về Hà Nội, một ông nói với tôi, là dàn nhạc của Hội Cựu chiến binh.
*
* *
“Tôi đẻ ba đứa ở Hà Nội, cũng gạo Nhà nước đấy, nhưng đói lắm, mà cũng chỉ có rau muống chấm nước mắm thôi. Rồi vợ chồng dắt díu về quê. Đẻ đứa thứ tư, đứa thứ năm. Hơn hai ngày đã phải dậy tráng bánh bán. Đẻ đứa thứ sáu, bốn ngày cũng đã phải dậy tráng bánh bán. Đẻ thằng Đán, ba ngày liền không một hột cơm nào vào bụng, toàn đu đủ xanh luộc chấm muối thôi” - Bà Phạm Thị Nhu nhớ lại.
Tôi chưa được gặp cả mười người con của bà, nhưng Đán thì giống bà đặc biệt. Giống ở gương mặt bầu tròn mà họa sĩ Cù Huy Hà Vũ đã vẽ tặng bà một bức ký họa lớn vẫn treo trên tường nhà. Giống ở nước da trắng hồng mịn màng như da con gái, mắt nâu, tóc nâu, khác hẳn anh trai đầu giống bố ở gương mặt rắn rỏi, quắc thước. Đán chỉ giống bố ở tính cách, bản lĩnh, nghị lực.
Bà Nhu lại kể, ngày mang bầu Đán, người ta ốm nghén thì thèm bún ốc, hay bún chả hay gì gì khác, mình chỉ nghén cơm. Mà cơm thì... nhà chả còn hột gạo nào.
Đẻ con Chung (con gái thứ sáu) chỉ một ngày sau đã phải đi chợ. Gánh đôi quang thúng không đi chợ. Vậy mà lúc về, một gánh nặng thóc gạo. Tiền đâu mà đong được? Người ta bán chịu cho thôi. Họ ế hàng, ngại gánh về, bán chịu còn hơn.
Mà bán cho bà Tú Loan thì không lo gì cả. Gánh gạo ấy, vợ chồng con cái sẽ xay thành bột, khi thì làm bánh đa, bánh cuốn, khi là bún, bánh đúc đem ra chợ bán, hay đổi gạo. Lấy công làm lãi, được đồng nào trả tiền nợ gạo. Chồng con được ăn bún ế, bánh ế, con lợn được ăn nước vo.
Trông thấy bà gánh nặng, đường về cũng gần hai cây số, một người phụ nữ cùng làng thấy thế kêu lên, vừa mới đẻ chị đã gánh thế này mà không sợ sổ ruột à? Không kiêng cữ gì à? Sao không nhắn anh ra gánh đỡ? “Ông ấy đi thồ đá, tối mịt mới về. Cũng chả còn hơi sức đâu mà gánh nữa”. Người đàn bà giầu lòng thương người ghé vai gánh hộ, lại còn dặn bà đi chậm thôi.
Vợ con đói khổ, Hữu Loan đã gắng hết sức, đã tìm cách... Và ông cũng từng đi buôn hẳn hoi, chứ không phải chỉ ngày đập đá thồ đá, tối đi xúc tép.
Đi buôn, lỗ tiền nhưng lãi chuyện
Chắc nghĩ buôn bán vặt vãnh quanh quẩn như mình dù sao cũng kiếm được bữa rau bữa cháo, đồng quà tấm bánh, thì buôn to hơn, đi xa hơn chắc hẳn là kiếm được nhiều hơn. Mình chỉ lớp 4, chứ ông ấy là ông Tú thời Tây đâu phải đùa.
Thế là bà Nhu tích cóp được một món, vay thêm vài món nữa, đi chợ xa ven biển, mua bòn cá khô của bà con mang về. Tất cả là 17 cân, với mấy chục chiếc chiếu Nga Sơn nổi tiếng quê mình. Lại thêm mấy bánh thuốc lào nữa cho đa dạng hàng hóa.
Chọn một ngày lành, đẹp trời, ông Tú Loan đẩy xe thồ lên đường, nhằm hướng huyện miền núi Cẩm Thủy thẳng tiến, mang theo bao hy vọng, chờ trông của cả nhà. Đôi chân thồ đá, chỉ quanh quẩn quanh núi Vân Hoàn, quẩn quanh trong xã, giờ viễn du một chuyến thế này nhẹ nhàng hơn nhiều.
Vì gặp nhà nào cũng sà vào, bán được hàng, lại được trò chuyện, chả khoái à? Hôm ấy bước chân lang thang thế nào lại gặp một người cũng lang thang như ông. Nhưng không buôn bán gì, mà làm nghề đóng cối.
Cối tre, cối đất đóng được tất. Chỉ hơn hai ngày là xong một chiếc cối, chủ nhà bỏ thóc vào xay thử, gạo, trấu rơi xuống rào rào. Sàng thử, không một hạt thóc sót mới tài. Nhưng tài đóng cối của người thợ ấy không bằng tài kể chuyện.
Có lần đến vùng biển đóng cối, ông ta thăm một ngôi đền thờ Trạng Trình. Ngôi đền này đã có lần bị Nguyễn Công Trứ cho dỡ đi để phục vụ cho việc làm thủy lợi gì đó.
Công việc phá dỡ đang tiến hành thì lộ ra một hàng chữ Minh Mệnh thập tứ, thằng Trứ phá đền (Năm thứ 14 đời Minh Mệnh, Nguyễn Công Trứ phá đền).
Nguyễn Công Trứ sợ quá liền cho dừng việc phá dỡ, lại còn tu bổ thêm cho khang trang chắc chắn hơn. Chả biết thực hư thế nào, nhưng Hữu Loan thì khoái lắm.
Đúng là năm Minh Mệnh thứ 9 (1828 – Mậu Tí) Nguyễn Công Trứ có được phong chức Doanh điền sứ trông coi việc chiêu mộ dân (kể cả những người bị án tù, cũng được huy động, coi như để lấy công chuộc tội) để quai đê lấn biển khai khẩn đất hoang, làm nên những vùng đất trù phú là Hải Hậu (Nam Định), Kim Sơn (Ninh Bình) bây giờ.
Ngoài ra, ông còn cho đào những con sông vừa để dẫn thủy nhập điền vừa làm đường giao thông thuận tiện, nay vẫn còn. Vì thế chuyện ấy cũng có thể xảy ra lắm.
Nhưng bảo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cách đấy trên dưới hai trăm năm đã tiên tri như thế thì cũng khó tin lắm. Nhưng cần gì. Đã là giai thoại thì tính xác thực không phải là vấn đề lớn, miễn là nó mang lại khoái cảm trí tuệ là được.
Sau chuyến đi nhiều ngày về, Hữu Loan hào hứng kể chuyện với vợ con. Không phải chuyện lời lãi bao nhiêu, mà toàn những chuyện người nọ thế này, người kia thế nọ, nhiều nhất vẫn là chuyện ông phó cối tự xưng là hậu duệ Trạng Trình.
Lại còn thật thà kể rằng, đã biếu ông phó cối cả bánh thuốc lào có chết người ta không chứ. Vợ hỏi đến tiền bán hàng, ông chồng bỏ ra một mớ nhàu nát quăn queo. Cả nhà xúm lại vuốt từng đồng, xếp từng loại, đếm từng tờ. Đếm đi đếm lại vẫn chỉ có thế.
Lục lọi, moi móc hết cả túi này, bị kia cũng chỉ có thế. Một trận đại khẩu chiến xảy ra. Lý do: Lần đi buôn chuyến này do chính bà thiết kế, ông thi công thế là lỗ chỏng gọng. Mà tiền vốn mua hàng của bà chỉ bằng móng tay, tiền đi vay người ta bằng cả vốc tay. Cạch đến già!
Bà sinh cho ông những mười người con, thật là một kỳ tích. Kỳ tích ở chỗ bà Nhu không hề biết tất cả những chuyện kiêng khem như kiêng gió, kiêng nước, kiêng làm, kiêng vận động mạnh và ăn kiêng. Hai vợ chồng cứ quần quật đầu tắt mặt tối suốt ngày, chung lưng đấu cật, làm cật lực, chật vật lắm mới kiếm đủ ngày hai bữa cho đàn con.
*
* *
Bà Thiến (chính xác là dấu sắc - TG) ơi vào tôi bảo...! (vì sao ông gọi bà như vậy, xin sẽ kể đoạn sau). Từ lúc ông gọi đến lúc bà vào đến chỗ ông cũng phải mất năm, bảy phút. Dò lần từng bước như trẻ con mới tập đi như thế mới không phải dùng nạng, vì cú ngã gãy chân mấy năm trước - Bà ngồi xuống đây... Bà lại lựa thế, xoay người ra phía ngoài, từ từ ngồi xuống...
-... Bà biểu chúng nó may cho tôi một chiếc áo dài trắng.
- Để làm gì, ông thiếu gì quần áo. Hay ông chuẩn bị...
Bà không dám nói hết câu. Nhưng rồi cũng phải nói ra điều linh cảm:
- Ông không thương tôi hay sao mà định bỏ tôi đi?
- Bà nói gì lạ thế, tôi không thương bà thì thương ai...
Thoắt chạnh lòng, bà tấm tức:
- Thương mà còn…
*
* *
Cũng đã trên dưới ba mươi năm, kể từ năm 1958, Hữu Loan mới rời Nga Sơn, ra Hà Nội, rồi đi thành phố Hồ Chí Minh. Bạn bè gọi đấy là ông tái xuất giang hồ.
Cũng tại bạn bè và cả nhiều người chưa quen biết quá hâm mộ, cứ mời mọc, chèo kéo. Được gặp ông đã vui rồi, mời được về nhà lưu lại vài ngày thì còn vui hơn. Đoàn Thị Lam Luyến là một người có được niềm vui ấy.
Từ thời đi học, cũng như các sinh viên khác, chị mê Màu tím hoa sim. Là một tâm hồn đa sầu đa cảm, dễ xúc động, ẩn chứa một số phận đa đoan, nhà thơ càng ngưỡng mộ Ông già vườn Lỗi. Sau những ngày lưu lại ở nhà chị, trên báo xuất hiện bài thơ Chiều Lam huyền thoại. Từ lam vừa là một sắc màu - xanh lam, vừa là tên bạn thơ, cùng với tấm ảnh chụp hai người.
Có ai đó mang tờ báo về cho bà Nhu. Không ai biết bà đã ba máu sáu cơn thế nào, không ai biết gương mặt đẹp của người phụ nữ bên chồng mình bị bà “xử lí” thế nào. Chỉ biết sau đó, khi con cháu cầm tờ báo lên thì thấy chỗ ấy là một lỗ thủng hình chữ nhật, chỉ còn mình Hữu Loan của bà đang nhìn bà như trách móc!
Trước khi có vợ (bà Lê Đỗ Thị Ninh), Hữu Loan đã yêu nhiều, và với người yêu nào, ông cũng có thơ tặng. Người ta yêu mình, mình yêu lại thì có sao đâu. Nhưng chỉ lấy một người thôi.
Ông đã nói thế và sống như thế. Vợ đầu mất, mấy năm sau ông lấy bà Nhu. Người phụ nữ nào đến với ông, đều để lại dấu ấn trong thơ ông. Những người phụ nữ sau bà Nhu đến với ông cũng vậy.
Nhưng đó không phải là chuyện một người đàn bà đến với một người đàn ông, mà là những tâm hồn phụ nữ đa sầu đa cảm ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu một tài năng, vì tài năng ấy đã khóc vợ làm cho tất cả những người vợ, cả những người sẽ làm vợ, những người có vợ, và những người sẽ có vợ muốn khóc theo.
Giá trị nhân bản của Màu tím hoa sim là ở chỗ ấy. Không phải chỉ một chị Lam Luyến được ông tặng thơ. Còn hai chị Hoài Tố Hạnh và Nguyệt Cầm ở miền Nam cũng được ông tặng thơ.
Dù thế, bà Nhu cũng không chịu được. Không chấp nhận được. Cao tay thì quản chồng bằng những ràng buộc vô hình. Bà Nhu, đơn giản quản chồng bằng tài chính và thời gian. Tiền bạc thì ông nào có biết, có cần. Người ta rước ông đi, đãi đằng ông như vua, như thần tượng.
Lại còn tặng ông tiền bạc tiêu pha. Có lần, sau buổi nói chuyện, lúc ra cửa, một kẻ chém mạnh vào tay làm rơi túi bản thảo và tiền của ông. Về khách sạn, chả biết làm thế nào nữa. Khóc dở mếu dở, ông khấn thầm bà Ninh phù hộ. Vừa mở cửa phòng, vô tình kéo ngăn kéo bàn ra, thấy có một cục tiền.
Hỏi xung quanh, không ai nhận, thế mới dám tiêu. Không lẽ có ma? Loại ma này mới ghê gớm đây. Rút lại chỉ còn có cách kiểm soát thời gian. Ở nhà, thì công việc giam chân ông. Ban ngày đánh đá, thồ đá, ban đêm kéo vó tôm, chẳng lo gì.
Nhưng đi xa, một bước lên xe, hai bước xuống ngựa. Thiếu gì gái sán đến õng ẹo anh anh, em em,… biết ma ăn cỗ thế nào. Bà Nhu âm thầm thư từ, hỏi han đường đi lối lại, địa chỉ của những người quen. Rồi bí mật vay tiền giắt lưng. Các con giờ cũng đã khôn lớn.
Chúng thấy bà có những biểu hiện rất đáng ngờ... Có người vô tình hỏi các con bà, mẹ cháu vay tiền làm gì thế? Đoán được “âm mưu” của mẹ, chúng bàn nhau lấy trộm tiền bà giấu đi. Bà chửi toáng lên, nhưng vẫn không nguôi ý chí hành động.
Rồi một ngày, tỉnh dậy đã thấy bà khăn gói quả mướp, gió đưa lên đường, dông thẳng vào “Sè Goòng”. Cuối cùng bà cũng lần ra nơi ông tá túc.
Sửng sốt thấy vợ lù lù hiện ra như trên giời rơi xuống - Bà vào đây làm gì, đường sá xa xôi thế - Ông hỏi lạ! Tôi lo cho ông, tôi, tôi… nhớ ông, nhỡ khi trái nắng giở giời… - Có làm sao đã có anh em bè bạn, lo gì! - ... Còn mấy con mẹ mướp nữa phải không? Lại còn tặng thơ, chụp ảnh trưng lên báo nữa chứ….
Ông chồng cười rung chòm râu bạc: - Có gì đâu, thơ tặng chơi ấy mà… Với lại, à, bà có biết anh Vũ Bão không? - Tôi chẳng biết bão với gió nào cả. - Anh Vũ Bão có hai câu nổi tiếng, một là vãi linh hồn, hai là… là… bút bi hết mực. Tôi vào loại bút bi hết mực rồi! Chuyện ấy thì có thể bà tin, ông bảy ba tuổi. Lao động nặng nhọc đã vắt kiệt sức lực ông. Lâu lắm rồi ông bà không gần nhau. Nhưng còn cái chuyện thơ thẩn: - Sao ông không làm thơ tặng tôi?...
Ý bà là, sao bây giờ không làm thơ tặng bà mà lại có thơ tặng mấy con mẹ phải gió ấy. Bà không biết người ta thường chỉ làm thơ tặng vợ lúc bồng bềnh trên chín tầng mây thôi, chứ khi đã chạm đất là đã diễn nôm thơ ra văn xuôi rồi còn gì.
Mấy ai làm được, trừ khi bạn đời đi trước mình. Hữu Loan lại cười rung râu xí xóa: - Thì tôi đã chả tặng bà Hoa lúa để đời còn gì, ngừng một tí ông tiếp: -… Tôi đã tặng bà cả cuộc đời tôi rồi còn gì. Nghe ông nói thế, bà im lặng, có vẻ thỏa mãn. Nhưng ông thì không.
Ông lại cười, vì điều sắp nói ra: - Tôi biết bà vào đây làm gì rồi. Từ nay tôi gọi bà là… THIẾN THƯ nhé. Bà giật mình, không hiểu cái từ kỳ quặc ấy có nghĩa là gì. Ông cười phá lên vì trò đùa tếu vợ: - Trung Quốc có Hoạn Thư thì Việt Nam có Thiến Thư. Hai bà ghen ngang ngửa nhau.
Một lần tác giả Màu tím hoa sim nhận giải
Những ngày giáp tết Nhâm Thân (1992) mưa và rét. Cái tết đến cũng chậm chạp, thờ ơ trên thành phố đầu miền Trung này. Mấy anh em chúng tôi tình cờ gặp nhau ngay lối rẽ vào trụ sở Hội Văn nghệ tỉnh, liền rủ nhau vào tránh mưa, tán gẫu... Giờ này, lại đã hai mươi chín tết, còn ma nào! Quả thực các phòng đã im ỉm khóa.
Vốn từ ngày thành lập (1974), trụ sở Hội ở cạnh chợ Vườn Hoa là một dãy nhà cấp bốn ở nhờ một cơ quan ngành văn hoá. Chuyển đến đây từ mấy năm nay cũng là một dãy nhà cấp bốn là trụ sở do một hội đoàn thể nhượng lại (và tồn tại cho đến ngày nay). Đang loay hoay mượn chìa khoá mở cửa, tôi quay lại:
- Ối Bác Loan! Bác lên từ bao giờ thế?
Ông già cười đằm thắm, vai khoác chiếc túi du lịch đã sờn, đôi chân còn bết những giọt bùn cứ ôm lấy từng người mà "rung". Mái tóc trắng từ bờ vai ông phủ vào mặt vào vai tôi. Vừa ngồi xuống ghế ông đã kêu lên:
- Mình buồn quá!
Trong chốc lát chúng tôi hiểu là ông đang nói tới điều gì. Chả là mấy hôm nay anh em đang bàn tán xung quanh lễ trao giải Văn nghệ của địa phương. Có phải đùa đâu! "Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm 1986-1990" do tỉnh xét trao giải. Nhà văn H.V phàn nàn là cho đến giờ khai mạc vẫn chưa tìm ra địa điểm họp. Nhà văn T.H là phóng viên một tờ báo tỉnh được mời đến dự đã tường thuật lại với bạn bè rằng: "Buổi lễ diễn ra khoảng 30 phút. Sau một hai ý kiến rồi phát giải, rồi bế mạc, mình bước ra cửa và được dúi một phong bì... mỏng, rồi về!".
Nghe nói phần lớn những người đến dự và lĩnh giải là những thành viên Hội đồng giám khảo. Vì mỗi ngành văn học nghệ thuật có ba vị giám khảo thì các vị đã nhường nhịn chia nhau trọn ba giải - là số lượng giải quy định cho mỗi thể loại, quyết không để lọt ra ngoài!
Riêng bộ môn thơ thì không theo nguyên tắc đó. Giải ba được trao cho tác giả một phần thơ nhặt ra từ tập thơ in chung của hai người. Giải nhì là tập thơ của một bạn viết trẻ. Giải nhất thuộc về lão tướng Hữu Loan - tác giả "Màu tím hoa sim" - tập thơ do Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7/1990.
Tuy tránh được nguyên tắc trên, nhưng kết quả đưa ra của Hội đồng thơ lại bị phản ứng quyết liệt ngay từ đầu. Chỉ có vài tập thơ của các tác giả địa phương xuất hiện trong thời gian từ 1986 đến 1990, dày mỏng đậm nhạt ra sao mọi người đều biết, nên chất vấn của dư luận Ban Giám khảo không trả lời được. "Tiến thoái lưỡng nan!" bởi ngày trao giải đã định. Cuối cùng "đoàn tàu vẫn phải ra đi" mới để lại phần thưởng hai bộ môn thơ và kịch để Ban Giám khảo tiếp tục "nghiên cứu".
Có điều "Màu tím hoa sim" của nhà thơ Hữu Loan thì mọi người đều công nhận. Đây là tập thơ đầu của ông được in khi ông đã ở tuổi bảy lăm. Tập thơ gồm mười bài đều loại "thơ dài" viết rải rác trong và sau cuộc kháng chiến chống Pháp, kèm theo một vài giai thoại và hồi ký của đồng nghiệp về ông. Cuộc đời ông, tài năng ông như một định mệnh đã bị chững lại ở thời khắc ông sung sức nhất. Ông "từ quan" và lui về một làng quê xứ Thanh bươn chải đủ nghề: làm ruộng, làm vườn, kiếm cá, thồ đá xây dựng... Nhưng những câu thơ của ông thì vang mãi, vượt thời gian, vượt biên giới trở thành tài sản chung.
Một bạn thơ cùng quê, tuổi ở hàng con cháu đã về báo cho ông hay tin là ông được tỉnh trao giải nhất 1 triệu đồng tập thơ "Màu tím hoa sim" là giải thơ độc nhất trao "đặc cách" đợt này. Lễ trao thì đã tổ chức ngày 25 tết.
Ông nói thoạt đầu khi nghe tin ông không định đi, nhưng rồi nghĩ sao ông lại xách xe đạp ngược lên đây, và bây giờ đang ngồi trước mặt chúng tôi. Chiếc mũ vải vừa kéo xuống che kín hai tai vì gió rét. Thấy ông cứ áy náy điều gì, một anh bạn đột ngột đưa ra đề nghị:
- Theo cháu, bác cứ gửi lại tiền thưởng 1 triệu này đề nghị tỉnh giúp hoàn thành ngôi nhà cho bác, để bạn bè trong Nam ngoài Bắc có đến thăm bác cũng thuận tiện.
Chúng tôi coi đấy là "sáng kiến" vì hình như trên một tờ báo một bạn viết nhiệt tình và rất yêu mến bác đã nhanh nhảu báo tin: "Tác giả “Màu tím hoa sim” sắp có nhà mới". Nhưng đến giờ bác vẫn ra vào ngôi nhà mái bổi, tường đá lô xô, mỗi lần mưa to bố con lại phải loay hoay che chắn.
Nhà thơ Hữu Loan cười, ông vỗ vỗ vào chiếc túi căng phồng:
- "Mình lĩnh đây rồi!"
Tất cả cùng cười, bởi làm sao khác được! Giữa lúc cuộc sống khó khăn, ông không có nguồn thu nhập nào đảm bảo sinh hoạt trong khi còn phải nuôi hai đứa con đang tuổi ăn, tuổi lớn... Một triệu đồng này ông dự tính đã phải trả nợ đến hơn một nửa. Số còn lại kịp "cấp cứu" cho cái tết của cả nhà.
Ngoài trời mưa đã nhẹ. Chúng tôi giục ông ra về. Nhà thơ Hữu Loan dắt chiếc xe đạp ngược về phía bắc. Trước mắt ông là gần mấy chục cây số đường lầy lội. Ngày mai đã là ba mươi tết, ông và con cháu ông chắc sẽ vui khi có một khoản tiền.
Có lẽ đấy là những đồng tiền thưởng đầu tiên cho cả đời thơ mà ông đã chắt ra từ mấy chục năm trước.
Trịnh Ngọc Dự
Kỳ II: Khắc khoải bóng hình người con riêng
Nguyễn Bắc Sơn
|
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đã đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ý kiến |
|
|
|
|