ngoiquannet
member
ID 70280
11/15/2011
|
Căn bệnh lạm phát đại học ở Việt Nam?
Thường Sơn
Nhà báo tự do ở TP HCM
Cập nhật: 10:05 GMT - thứ ba, 15 tháng 11, 2011
Hiện tượng một số trường đại học phải đóng cửa ngành học đă manh nha xuất hiện vào năm 2010 tại các trường đại học khác như Đại học Đông Đô, Đại học Lương Thế Vinh, Đại học Hồng Đức...
Nhưng khi nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào trạng thái đ́nh lạm (hoạt động sản xuất-kinh doanh đ́nh đốn trong bối cảnh lạm phát vẫn tăng cao), hiện tượng đó đă mang tính phong trào – không khác mấy với phong trào “nói Không” của ngành giáo dục được khởi phát từ thời kỳ đảm nhiệm của Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân từ giữa năm 2006.
Cho tới nay, khó ai có thể xác dịnh được phong trào đóng cửa ngành học đă bắt đầu từ đâu, thành phố loại 1 hay các thành phố loại 2,3. Nhưng điều chắc chắn là phong trào này đă lan rộng ở cả ba miền Trung, Nam Bắc, đặc biệt ngay trước thềm khai giảng năm học 2011-2012.
Tại miền Trung là trường hợp của Đại học Đà Nẵng (đóng ngành kinh tế chính trị và thống kê tin học), Đại học Phạm Văn Đồng (đóng ngành tài chính ngân hàng). T́nh h́nh khó khăn tương tự cũng xảy đến với các trường đại học An Giang, Đồng Tháp. Trong khi đó, ngay tại TP. Hồ Chí Minh với số lượng hơn nửa triệu sinh viên và thuộc loại cao nhất nước về sức cầu học tập, cũng có những trường dân lập phải đóng cửa ngành học như Đại học Văn Hiến, Đại học Hùng Vương.
Ngay cả một trường công lập có bề dày truyền thống như Đại học Nông lâm cũng đă tuyên bố có thể phải đóng cửa nhóm ngành cơ khí, nông nghiệp. Ở khu vực phía Bắc, Đại học Chu Văn An tại Hưng Yên cũng không phải là ngoại lệ.
Hiện tượng đóng cửa ngành học nói lên điều ǵ? Những trường hợp nêu trên chỉ mang tính minh họa, trong khi c̣n khá nhiều trường đại học cũng lâm vào t́nh trạng như thế. Một số chuyên gia giáo dục đă đưa ra những giải thích xác đáng: chỗ học tăng lên trong khi lượng thí sinh tăng không đáng kể, hoặc chủ trương đại học hóa các trường cao đẳng đă dẫn đến t́nh trạng mạng lưới bị thừa và lẫn lộn…
Cung tăng trong khi cầu không thỏa măn được cung, một quy luật tự nhiên mà giáo dục đại học không được xem là ngoại lệ. Thậm chí trong những năm tới t́nh h́nh tuyển sinh của khối đại học dân lập c̣n bi đát hơn hiện thời.
“Phải coi dạy học như làm dịch vụ”
Tháng 10/2011, trong một cuộc họp sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 269/CT-TTg về đổi mới quản lư giáo dục đại học, Phó thủ trướng Nguyễn Thiện Nhân tiếp tục phát ngôn một triết lư mới: “Phải coi dạy học như làm dịch vụ”. Cho đến thời điểm xuất hiện phát ngôn ấy, ông Nhân đă phụ trách ngành giáo dục Việt Nam được đúng 5 năm – ứng với khoảng thời gian để tổng kết những kết quả đạt được của các kế hoạch phát triển trung hạn ở đất nước này.
Thế nhưng tiêu chí so sánh thực chất nhất chính là số bài báo khoa học trên tập san quốc tế giữa hai quốc gia: ngành giáo dục Việt Nam chỉ có 959 bài, trong khi các nhà khoa học Thái có đến 4.527 bài, tức gấp gần 5 lần.
Như vậy, chỉ cần so sánh với một trường hợp phát triển trung b́nh như Thái Lan, đă có thể thấy thực chất ngành giáo dục Việt Nam ra sao khi số lượng trường đại học nhiều hơn hẳn, nhưng chất lượng đào tạo lại kém hơn hẳn.
Trách nhiệm
Khách quan mà nói, Nguyễn Thiện Nhân là một nhà khoa học có tâm trạng trước hiện t́nh thoái hóa về chất trong giáo dục Việt. Bởi thế vào năm 2010, trên cương vị phó thủ tướng, ông đă đề xuất một chương tŕnh về đào tạo 20.000 tiến sĩ cho đến năm 2020.
Xét về chiến lược, việc đào tạo tiến sĩ cho dài hạn là hoàn toàn chính xác. Nhưng chương tŕnh này đă gây ra nhiều tranh căi liên quan chủ yếu đến động cơ của nó, và cả cá nhân bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân.
“Phong trào đào tạo tiến sĩ” đă thiếu may mắn khi ra đời trong bối cảnh nền giáo dục đại học bắt đầu lộ rơ những khuyết nhược quá lớn của nó, cũng là hậu quả của việc chạy theo số lượng mà bỏ quên chất lượng từ chính chủ trương của ông Nhân.
Tuy vậy, vẫn theo tiền lệ có tính truyền thống, chẳng có ai là người bị quy trách nhiệm, và càng không có ai tự nguyện đứng ra chịu trách nhiệm về rất nhiều hậu quả trong công tác quản lư lẫn nạn nhũng nhiễu, tham nhũng tràn ngập trong ngành giáo dục.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả, một nhà báo tự do ở thành phố HCM.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat