bác lại vi phạm bản quyền của Osin rồi. hic. Nhưng thực sự mà nói Quyền Bính gây thất vọng so với phần I.
hoami09
member
REF: 648815
01/23/2013
“Hăy tôn trọng lịch sử” nhưng lịch sử nào?
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm này. Sách do một người em gởi từ California vẫn chưa đến. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư cách một người miền Nam đă sống những năm khắc nghiệt ở Sài G̣n, “sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tác phẩm Bên Thắng Cuộc.
Hầu hết báo lề đảng đều đ̣i hỏi “Hăy tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?
Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xă hội sau gần 80 năm sống trong chế độ toàn trị kinh hoàng nhưng là viết lại lịch sử. Các nhà sử học Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn c̣n đang đánh giá. Nhiều chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ hai v.v... đă bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố t́nh viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xă chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành h́nh. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mă, các h́nh thái kinh tế cũng được giải thích theo quan điểm CS.
Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế. Lịch sử không có một ḍng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận. Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà Huy Đức có thể đă ám chỉ trong b́a sách Bên Thắng Cuộc.
Rất nhiều tranh luận về lư do tồn tại của chế độ CS tại Việt Nam. Trong cái nh́n của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xă hội nhưng chính là nhờ tác dụng của cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đă thành công trong việc che giấu được tội ác và khoát cho ḿnh chiếc áo chính danh, chính nghĩa hay ít nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS.
Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đă pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhăn hiệu Dân tộc Xă hội chủ nghĩa. Đảng CS lư luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rơ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn Nga Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng ǵ đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lănh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và vận dụng ḷng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lư luận của kẻ cướp. Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đă chết.
Như tôi đă viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xă hội dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến tŕnh vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Ḥa không dính dáng ǵ đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đ́nh Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xă hội tốt đẹp hơn như hàng trăm chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm công cụ cho đảng CS, họ đă tự chắt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân miền Nam.
Tác giả viết trong Sài G̣n Giải Phóng nhắc đến "10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi t́m lănh đạo đảng CS để thanh toán cả vốn lẫn lời v́ cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến bộ như ngày nay.
Tác giả trên báo Sài G̣n Giải Phóng cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi cũng đă từng đến đó, không phải v́ phải ở tù mà chỉ v́ muốn biết một di tích lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đă bị bắt, tra tấn và đă hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đă hy sinh trong cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.
Nếu họ đă từng là đảng viên Cộng sản th́ sao? Không sao cả. Như tôi đă có dịp viết trong tiểu luận Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải v́ tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, v́ điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con gịng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xă Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền ḥa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà c̣n gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức th́ khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà c̣n nhuộm đỏ cả ḍng lịch sử.
Tác giả viết trên báo Pháp Luậtso sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đă “Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài G̣n cũ đối với những người yêu nước.”
Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt ḿn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù binh chiến tranh mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt động thành Sài G̣n Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy” c̣n mặc tă ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đă và đang được áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới không riêng ǵ Việt Nam Cộng Ḥa.
So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn c̣n lên đến 300 ngàn người. Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng 165 ngàn người đă chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân, gia đ́nh, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đăi như nô lệ thời CS chỉ v́ lư lịch VNCH.
Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên, không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi nhân đă được đảng thực thi sau khi đất nước đă ḥa b́nh, sau khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài G̣n Gia Định vuốt ve các viên chức VNCH c̣n trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi.”
Phân tích như vậy để thấy lư luận trong bài viết trên báo Pháp Luật cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30-4-1975 “không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản phẩm của chính sách tẩy năo. Miền Nam sau 30-4-1975 là một nhà tù và nhân dân miền Nam là tù nhân dưới nhiều h́nh thức khác nhau.
Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn biến ḥa b́nh bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn c̣n bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lư thuyết Mác Lê có thể chỉ c̣n trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn văn, trong các bài ai điếu của các lănh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên chính, toàn trị CS vẫn không khác ǵ nhiều so với thời triệt để cách mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi, đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đă sống và đă chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong nhà tù CS chỉ v́ dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.
Tác giả trên báo Sài G̣n Giải Phóng viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất ḷng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hăy chỉ dùm tôi, không phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đă “lúc này lúc khác”. Bản chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.
Lănh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn ḍng. Hàng ngàn câu chuyện thật đau ḷng đă xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau 1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ.
Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xoi ṃn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người đi t́m búa hoặc chết trên đường hoặc trở về không. C̣n lại hôm nay là những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Ḥa, Lê Văn Sơn và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là sự thật.
Cám ơn hoami bài viết có nhắc đến khủng bố vc nha.Cho nên MH xin góp một video clip h́nh ảnh khủng bố vc trước 75 đă tàn sát dân lành và trẻ thơ.
traithom
member
REF: 649107
01/27/2013
*******
Hoami9 và Muahe2011ger đă trưng ra những h́nh ảnh cũng như những cuốn phim lịch sử phơi bày những hành động sát hại dân lành một cách dă man của tập đoàn cộng sản Việt Nam, những h́nh ảnh đó khiến cộng sản không thể ngụy tạo và bênh vực cho cái ác tâm của bọn cộng sản khi chúng cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam... Bao nhiêu trẻ thơ vô tội và dân hiền lương bị chúng tàn sát thật quá thương tâm...
Những h́nh ảnh này là những đ̣n giáng vào bộ mặt gian ác của cộng sản...Lịch sử không thể dấu giếm bởi một cuốn sách mang tên "Bên Thắng Cuộc"...Cái giá phải trả cho những tội đồ cộng sản miền Bắc là hàng triệu sinh mạng của con người, quân dân khắp lănh thổ Việt Nam, hàng trăm, hàng ngàn người dân, trẻ thơ và cả những chiến sỉ Bắc Việt đă bị chúng lừa dối, hoặc khủng bố để làm vật lót đường cho cái tham vọng của chúng, đă bị chúng tàn sát rất dă man...Để bay giờ chúng hồ hỡi tuyên bố là "Bên Thắng Cuộc" mà sự thắng cuộc của chúng là "Những bàn tay nhuốm máu đồng bào.bàn tay nhuốm máu anh em..."
Từ đó ta suy ra, cái thắng cuộc của những con người sẳn sàng sát hại đồng bào ruột thịt của ḿnh, sẳn sàng bán đứng quê hương, phản bội tiền nhân mà không hề do dự, đắn đo..."
Những h́nh ảnh lịch sử trên đă vạch trần bộ mặt thật của những kẻ "Thắng Cuộc" nó gian ác tới chừng nào!...
TT
sontunghn
member
REF: 649311
01/30/2013
” Bên thắng cuộc” viết cho ai? Ai đọc ” Bên thắng cuộc”?
G̣ Cỏ May
Phải nói sau khi đọc xong cuốn 2 của “Bên thắng cuộc”, có tựa đề “Quyền bính”, tôi như vừa tận hưởng “bữa tiệc” thông tin rất ấn tượng. Mà từ trước tới nay chưa được tham dự bao giờ.
Có một số ư kiến cho rằng, tác giả Huy Đức chỉ bày biện các sự kiện theo kết cấu có chủ ư một cách thật tự nhiên mà không b́nh luận ǵ nhiều… nên tác phẩm thiếu đi tính “hàn lâm”. Nhưng theo tôi, ở 2 cuốn sách này, Huy Đức đă đạt tới một thủ pháp rất cao trong cách thể hiện của một nhà báo có tầm nh́n theo phương pháp làm báo hiện đại. Đó là sự tôn trọng độc giả, tránh sự áp đặt chủ kiến của tác giả lên hiện thực khách quan của lịch sử. Khiến độc giả thay v́ thụ động tiếp nhận thông tin, lại có thể chủ động tham gia vào từng sự kiện. Để tiếp nhận nó một cách chủ động, tùy theo tŕnh độ, khả năng và cảm thụ riêng biệt của mỗi người.
Lại có ư kiến nhận xét, tác giả Huy Đức giành nhiều thiện cảm với các ông Vơ Văn Kiệt và các cộng sự đắc lực của ông. Song nếu tinh ư, ta sẽ thấy, tác giả không hề né tránh khi đề cập tới trách nhiệm của ông Vơ Văn Kiệt trong việc kư 2 nghị định gây nhiều hệ luỵ về mở rộng hoạt động của Tổng cục II (96/CP) và nghị định quản chế tại gia những người bất đồng chính kiến (31/CP).
Nhược điểm nữa rất cơ bản ở ông Kiệt là không những chỉ mải lo về chính sách phát triển kinh tế mà xem nhẹ công tác nhân sự (để cho Trần Đ́nh Hoan tác oai tác quái). Với cương vị thủ tướng ông đă buông lơi cả về quốc pḥng, an ninh và ngoại giao cho Lê Đức Anh thoả sức tung hoành. Rồi cả những lem nhem trong chuyện “quan hệ bất chính” (quan hệ ngoài hôn nhân) của Vơ Văn Kiệt với bà Hồ Thị Minh (người dự kiến sẽ “giúp việc” cho cụ Hồ) ở chiến khu Việt Bắc. Người con ngoài giá thú Phan Thành Nam (với bà Minh) cũng được Huy Đức đưa vào tác phẩm khá chi tiết, khi mà tất cả các tài liệu chính thống đều né tránh.
Một người nữa, được cho là Huy Đức ưu ái, đó là vị Đại tướng Tổng tư lệnh – Bí thư Quân uỷ (một thời) – Vơ Nguyên Giáp. Song cứ đọc những ḍng sau đây, ta sẽ thấy tác giả đă rất khách quan đối với nhân vật lịch sử này:
“Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đă cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ ḷng trung thành với tổ chức và ư thức tuân thủ kỷ luật đă rút đi thanh gươm trận của ông.”
Không chỉ có Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến ở miền Nam trước 30.04.1975, cho dù cả 2 ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ o ép tướng Giáp một cách quyết liệt bằng việc cho bắt tất cả những cộng sự thân tín của ông Giáp trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống đảng”. Nhưng vai tṛ của tướng Giáp trên cương vị Bộ trưởng Quốc pḥng và Bí thư Tổng Quân uỷ TW trong Tổng hành dinh chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Hà Nội là không ai có thể thay thế được. Vậy mà uy tín và sinh mạng của tướng Giáp dưới cái nh́n của TBT Lê Duẩn và Trưởng Ban Tổ chức TW Lê Đức Thọ thật rẻ rúng:
“Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đă chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông c̣n để cái đầu ông Giáp trên cổ là đă may lắm”.
(trích chương 15: tướng Giáp – Cuốn 2: Quyền bính)
Cho nên trong thời điểm tướng Giáp được giao nhiệm vụ phụ trách UB Dân số và Kế hoạch hóa Gia đ́nh, ngoài dân gian đă lưu truyền vế câu đối: “Ba mươi năm chiến tranh tướng Vơ không c̣n Nguyên mảnh Giáp” là vậy! Bởi, khi “thanh gươm trận” sắc bén của ông đă không thể bảo vệ được các chiến hữu và cả bản thân ḿnh, hào quang của vị “Anh Cả Quân Đội” thật sự chỉ như thứ “nắng quái chiều hôm” trong mắt những kẻ nắm “Quyền bính” thật sự. Nếu tướng Giáp không “hèn” trước song Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), chắc chắn số phận của ông sẽ đoản mệnh như hai vị tướng lừng danh nơi trận mạc (Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn) chí cốt của ông (?)
Đóng góp rất đáng ghi nhận của Bên thắng cuộc (BTC) là đă trả lại một phần quan trọng sự thật của lịch sử hiện đại của Việt Nam (nhất là sau 30.04.1975) như vốn dĩ nó có. Chứ không phải bằng sự thêu dệt nhằm mục đích tuyên truyền của bất kỳ phe nhóm nào. Bởi vậy, sau khi đọc xong BTC, ta càng thấy không lạ những cây viết qúa gượng gạo (theo đơn đặt hàng) khi cho rằng tác phẩm của Huy Đức là “thiên kiến”; “thiên lệch”; “bóp méo”; “nh́n lịch sử qua lỗ đồng xu”; là “chém gió”. Có ư kiến của quan chức c̣n lấp lửng răn đe “sẽ xem xét BTC dưới góc độ của Nghị định 97/CP”.
Đối với những người chưa hề (chưa thèm) đọc tác phẩm mà đă hô hào và tích cực chống cuốn sách, thật chả đáng để chúng ta bận tâm nhiều.
Có vài chi tiết vụn vặt ở phía các tướng lănh của VNCH như tướng Lê Văn Hưng (chuẩn tướng – Phó tư lệnh Quân Đoàn IV) dùng súng bắn vào ngực (tim) hay bắn vào đầu? hiện vẫn chưa chính xác. Đặc biệt cách dùng từ “tuẫn tiết” (như Huy Đức dùng) hay “tự tử” (v́ sợ bị trừng trị của một số ư kiến pḥ bên thắng cuộc) cũng có gây tranh căi. Mặc dù vậy, những cái chết can đảm, trọng danh dự của các tướng VNCH (dù bằng sung hay bằng thuốc độc) trong và sau thời điểm 30.4.1975 như tướng Nguyễn Khoa Nam; Lê Văn Hưng; Trần Văn Hai; Phạm Văn Phú; Lê Nguyên Vỹ… cũng đáng để cho những ai yêu hoà b́nh, hoà hợp và hoà giải dân tộc suy ngẫm. Bởi không chỉ sự thật mà cả t́nh thương yêu giống ṇi mới có thể là phương thuốc qúi nhằm “chữa lành các vết thương cũ”. Chứ hận thù và cố chấp sẽ chả bao giờ lấp được cái “hố ngăn cách” vốn đă qúa sâu giữa những cựu thù.
Ngoài thái độ ngạo mạn của cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ, bỏ ngoài tai lời khuyên can hợp lư của tướng Giáp trong đợt Mậu Thân 1968, dẫn tới sự tổn thất nặng nề cả quân và dân trên toàn miền Nam. Nhờ phần phụ lục của cuốn 2 (Quyền bính) của BTC mà ta mới thấy rơ hơn chân tướng nhà độc tài hiếu chiến Lê Đức Thọ đă cư xử vô lối tới mức nào với trận chiến khốc liệt ở Quảng Trị: “Theo tướng Lê Phi Long, trong thời gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm t́nh h́nh vừa tự ư đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu, không đồng t́nh với cách làm này nhưng không biết than thở với ai, h́nh như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó…”. Chính sự chớ trêu này mà: “Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân miền Bắc đă gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: “Lực lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ c̣n phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ c̣n ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đă phải rời giảng đường để nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đă ngă xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ th́ chiến đấu một cách tuyệt vọng, c̣n các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau ḷng. Ta đă tung hết lực lượng, đă kiệt quệ. Có lúc tôi đă phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, v́ hết cả quân”.
Vậy mà những màn vừa diễn ra về cái gọi là “kỷ niệm 40 năm ngày kư kết Hiệp định Paris thắng lợi” của hệ thống tuyên truyền lề đảng ầm ĩ suốt cả tuần qua vẫn cho rằng Lê Đức Thọ là nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà quân sự bậc kỳ tài. Trong khi bất chấp lời khuyên của Tổng hành dinh (của tướng Giáp), cùng với Lê Duẩn nhắm mắt ném quân vào “cối xay thịt” – Thành cổ Quảng trị nghiền nát 1 đại đội/ngày (81 ngày=81 đại đội) mà kết quả của ḥa đàm cũng chỉ là những điều khoản do phía Mỹ đưa ra từ thời gian trước đó. Để minh định cho sự thật này, tác giả Pierre Asselin từ Hononulu gửi cho BBC ngày hôm qua (28.01) đă chỉ ra rằng:
“Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lănh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, đặc biệt là Lê Duẩn, đă mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu.”
Ở một đoạn khác Asselin phân tích:
“Hà Nội đánh giá thấp quyết tâm bảo vệ lợi ích của Ṭa Bạch Ốc ở Việt Nam. Đợt đánh bom Giáng sinh ở Hà Nội và Hải Pḥng gây chấn động tâm lư cho Hà Nội, chưa kể thiệt hại vật chất. Vài ngày sau khi Hà Nội cam kết trở lại bàn thương lượng và Nixon tạm dừng đánh bom, hội đàm mở lại ở Paris.
Sự thực tế của Hà Nội, việc họ muốn kết thúc đàm phán, chấm dứt chạm súng, thể hiện rơ qua sự sẵn ḷng có những nhượng bộ mới, nhất là ngôn ngữ về t́nh trạng khu phi quân sự sau khi ngừng bắn. Nếu Hà Nội đă có những nhượng bộ này ngay từ đầu tháng 12, cuộc đánh bom Giáng sinh đă tránh được.”
Có một điều thú vị nữa mà những ai chưa được đọc “Hoa xuyên tuyết” của tác giả Bùi Tín th́ chưa hiểu được sự trắc ẩn trong con người cố TBT Nguyễn Văn Linh. Một người mà có thời được cho là linh hồn của công cuộc “đổi mới” và “cởi trói” sinh hoạt văn nghệ ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Sau khi đọc xong cuốn 2 (Quyền bính), với những giữ kiện khá đầy đủ, ta mới thấy đây chính là con người ít học, bảo thủ, định kiến và thù vặt nhỏ nhen với tầm nh́n vô cùng thiển cận. Cho dù đời tư khá thanh bạch chính liêm. Nguyễn Văn Linh và những nhân vật bảo thủ giáo điều như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng… đă bóp chết tư tưởng dân chủ đa nguyên xuất hiện ở xứ ta hồi cuối thập niên 80s ngay từ trong trứng nước.
Công cuộc “đổi mới” với những bài báo kư tên NVL dưới thời ông Linh trị v́ thực chất chỉ nhằm nâng cao vị thế của Tổng bí thư (vốn “cách nhau chỉ bằng sợi tóc” như chính lời ông Linh nói lúc nhậm chức). Để rồi sau đó quay lại hoàn toàn với giáo điều “ư thức hệ” một cách tai hại và phải chui vào ṿng ảnh hưởng của Bắc Kinh mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là “Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 5 bắt đầu”. Đó là về chính trị. C̣n lĩnh vực kinh tế, với tư duy giáo điều về con đường đi lên CNXH, thành phần kinh tế nhà nước vẫn cứ nắm vai tṛ “chủ đạo” cho dù làm ăn thua lỗ, thất thoát do không tự bơi được trong cơ chế thị trường tự do. Luôn cần “phao bơi” chả khác thời bao cấp. Cái gọi là “đổi mới” thực ra chỉ là giải pháp t́nh thế khi bầu sữa “viện trợ của Liên Xô” không c̣n. Nhiều nơi trong nước thiếu đói tới mức có người đàn ông phải cắt bắp chân của ḿnh để nấu cháo cứu đói cho các con. Những cảnh rùng rợn như trong “Cái đêm hôm ấy đêm ǵ” (Phùng Gia Lộc), chỉ khi được phanh phui, người dân mới được đảng và nhà nước “đổi mới tư duy” cho bung ra làm ăn tự do để khỏi chết đói.
Khi có chút của ăn của để nhờ mở ra đa thành phần về kinh tế mang lại th́ giới bảo thủ lại sợ “chệch hướng”, lại thít. Nhất là việc đưa vào Bản sửa đổi Hiến pháp 1992 điều 4 (giống điều 6 của thây ma hiến pháp Liên bang Xô Viết) về sự lănh đạo độc tôn của ĐCS. Đặc biệt vẫn qui định đất đai thuộc “Sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lư”. Như thế cái gọi là “đổi mới” theo “cơ chế thị trường định hướng XHCN” thực ra chỉ là tṛ bịp để cho những kẻ nắm quyền bính đè đầu cưỡi cổ ḥng “ăn trên ngồi trốc” và “vinh thân ph́ gia” trên xương máu và mồ hôi nước mắt của muôn dân.
Như một qui luật tất yếu “cùng tắc biến”, những bế tắc về kinh tế hiện nay, biết đâu lại là cơ may cho sự thay đổi toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị. Đồng hành với những đóng góp rất trách nhiệm của hàng ngàn trí thức và nhân sỹ tiến bộ vào Bản dự thảo hiển pháp sửa đổi đang trong giai đoạn lấy ư kiến đóng góp của toàn dân, cuốn sách BTC của Huy Đức do tác giả tự phát hành vào dịp này thật rất kịp thời. Nó không chỉ dừng lại ở việc công bố sự thật để “giúp chúng ta t́m ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà c̣n giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới” như tác giả bộc bạch ở chương cuối (chương 22 – Cuốn 2: Quyền bính) với đoạn kết sau đây:
Nhớ khi “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xă hội”, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân th́ đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do th́ độc lập cũng không có nghĩa lư ǵ”(629). Không thể phủ nhận tầm nh́n của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng.
Giá như không phải là ư thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng h́nh thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lănh đạo, th́ người dân đă tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đ́nh.”
Thiết nghĩ, đó là tất cả tâm lành của một nhà báo dấn thân, không c̣n muốn “trú ngụ trong sự sợ hăi” luôn trăn trở và lao động miệt mài hàng chục năm ḍng mới có được. Vậy “công tŕnh khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lăo luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước…” (như ư kiến của giáo sư Chu Hảo – NXB Tri thức, Hà Nội) đă viết cho ai? Và ai cần đọc Bên thắng cuộc nhất?
Xin nhường lại cho người có trách nhiệm cao nhất của chế độ, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các ông trong Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (nếu qúi vị thật ḷng muốn dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ và văn minh… ) trả nhời giùm!
Theo blog GCM
sontunghn
member
REF: 649398
02/01/2013
Đọc “Bên thắng cuộc” để t́m sự đồng thuận cho hiện tại và tương lai(ST)
Tiêu Dao Bảo Cự
NQL: Đây là bài viết hay nhất trong tất cả các bài viết về Bên thắng cuộc mà tôi đă đọc.
Cuốn sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức vừa mới ra đời đă tạo thành một hiện tượng, nhiều người t́m đọc, giới thiệu cho nhau, ngợi ca và phê phán. Một cơn sốt trong dư luận như thế này là điều hiếm có từ một cuốn sách khá khô khan.
Về bản thân cuốn sách Bên thắng cuộc
Nội dung của Bên thắng cuộc không phải là vấn đề mới. Lịch sử Việt Nam sau 1975, ai đă từng trưởng thành trong giai đoạn này mà không sống trải, chiêm nghiệm hay nghe, biết ít nhiều về những ǵ đang trào sôi trên đất nước và ảnh hưởng đến từng số phận con người. Cái mới ở chỗ tác giả đă tập trung vào một số chủ đề nổi cộm với cách tŕnh bày sáng sủa, đầy ắp tư liệu để cung cấp cho người đọc một cái nh́n tổng thể, sinh động và liên tục.
Có người nói cuốn sách không tŕnh bày được toàn bộ sự thật về giai đoạn lịch sử này. Điều ấy tất nhiên và đ̣i hỏi đó là một yêu cầu vô lư. Ai, cuốn sách nào có thể tŕnh bày được như thế? Không ai cả, nếu không phải là hàng trăm cuốn sách và một độ lùi lịch sử vài ba chục năm nếu t́nh h́nh thuận lợi, không c̣n độc đảng toàn trị, độc quyền viết lịch sử.
Có người ở ngành lịch sử trong nước than: ước ǵ chúng tôi có thể có tư liệu và tự do để viết như Huy Đức, một người làm báo. Người viết sử chính thức trong hệ thống chỉ được phép sử dụng tư liệu chính thống và viết theo quan điểm chính thống. Làm sao có sự thật lịch sử.
Có người c̣n nói về thể loại, cho rằng Bên thắng cuộc không phải là sách lịch sử, không có giá trị. Sao lại phải gọt chân cho vừa giày? Thiếu ǵ sách lịch sử “đúng kiểu” mà lại chẳng có bao nhiêu lịch sử trong đó. Tác phẩm làm ra các thể loại chứ không phải thể loại làm ra tác phẩm. Điều này đúng không phải chỉ cho lịch sử mà c̣n trong văn học nghệ thuật. Thí dụ có nên tranh căi tiểu thuyết và truyện ngắn cần phải có cốt truyện hay không. Đơn giản là cuốn Bên thắng cuộc viết về đất nước thời kỳ sau 1975 và giá trị của nó ở chỗ mang lại điều ǵ có ích cho người đọc.
Bên thắng cuộc có nhiều điều mới và không mới, đúng và không đúng, đối với người này người khác. Chuyện “tuẫn tiết”, tù cải tạo, vượt biên, không thể nào Huy Đức biết được nhiều, đầy đủ và thấm thía bằng những người trong cuộc, nhất là khi nhiều người trong số họ sau khi ra nước ngoài đă viết bút kư, hồi kư về chuyện của ḿnh và những người đồng cảnh. Cũng những chuyện đó và nhiều chuyện khác, thế mạnh của Huy Đức là người có hiểu biết, có tư liệu đặc biệt của bên thắng cuộc mà nhiều vấn đề đến nay vẫn chưa được phổ biến công khai. Những cuộc phỏng vấn, chuyện tṛ cá nhân, các hoàn cảnh và tâm t́nh riêng tư của giới lănh đạo được đưa vào không phải là những “chuyện vặt vănh” mà chính là giúp soi rọi thêm t́nh h́nh, v́ lịch sử không chỉ là những sự kiện khô khan, những con số, ngày tháng, chủ trương chính sách mà do con người cụ thể tác động, nhất là những người nắm quyền lực.
Có những vấn đề tuy đă chú ư tập trung nhưng Huy Đức cũng không thể nào giới thiệu đầy đủ như chuyện “cởi” và trói” thời Nguyễn Văn Linh, chỉ riêng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và báo chí. Tác giả đă không đề cập cơn sóng phản kháng đ̣i tự do dân chủ cuồn cuộn trong giới văn nghệ và báo chí ở nhiều tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên, Miền Nam, kể cả trong một số báo Đảng và những hệ lụy sau đó. Đây chỉ là một nhận xét, dĩ nhiên không thể đ̣i hỏi quá nhiều ở tác giả trong một cuốn sách viết toàn diện về một thời kỳ dài phức tạp như thế.
Giá trị nội dung của bản thân Bên thắng cuộc, chính là lịch sử, hay hoàn cảnh đất nước từ sau 1975, được tái hiện một cách công phu, tập trung, với tư liệu phong phú, có thể tin cậy, một cách tương đối khách quan, bằng bút pháp trong sáng của một nhà báo có tâm, có nghề, được chuẩn bị một cách có ư thức và khoa học qua nhiều năm tháng, với ư chí và ư định rơ rệt muốn mang lại sự thực cho một giai đoạn lịch sử hiện tại, đáng lư rơ rệt th́ lại quá mù mờ.
Các nguồn tư liệu riêng và chung phong phú, với hàng ngh́n chú thích nghiêm túc (cuốn I có 608 chú thích, cuốn II có 654 chú thích), không chỉ về những vấn đề sau 1975 mà c̣n ngược về quá khứ nhiều năm trong những sự kiện liên quan, cho thấy sự làm việc cẩn trọng, cần mẫn của tác giả. Có thể đă có những sai sót đây đó nhưng có lẽ do vô t́nh chứ không phải cố ư của tác giả.
V́ mục đích nói về bên thắng cuộc nên những tư liệu đưa ra cũng chủ yếu của bên này. Có những tư liệu chứng tỏ sự dối trá rơ rệt và đó là dối trá của nhà cầm quyền chứ không phải là dối trá của người trích dẫn, như ta có thể thấy khi tác giả đưa ra những tư liệu trái ngược chung quanh chuyện cải tạo. Thí dụ một trích dẫn trên báo Tin Sáng mô tả “không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè” trước khi giới thiệu một lá thư của người chồng là sĩ quan đang cải tạo gởi cho vợ. Người đọc có thể thấy dụng ư mỉa mai của tác giả chứ không phải đồng t́nh khi cố ư đưa ra trích dẫn đó một cách khách quan và đặt trong bối cảnh bi đát của toàn bộ chuyện cải tạo.
Những cách đọc Bên thắng cuộc
Bên thắng cuộc chắc chắn là một cuốn sách đáng để đọc, nội dung của nó không tranh luận, tranh căi với ai nhưng vừa mới ra mắt đă tạo nên nhiều dư luận ngược chiều, tranh luận, tranh căi đến mức cực đoan và chắc chắn chuyện này c̣n tiếp diễn. Đây là hiệu ứng thành công và đáng mừng của một tác phẩm.
Trừ một số bài viết dù ở bên này hay bên kia, có nhận định một cách khách quan, phần lớn các bài viết chống cuốn sách ở cả hai phía thắng và thua cuộc (kể cả việc biểu t́nh chống dù chưa đọc sách), đều chứng tỏ “hội chứng chính nghĩa” của cuộc chiến trước đây đến nay vẫn chưa chấm dứt mà c̣n tiếp diễn một cách gay gắt khi sự ra đời của cuốn sách kích động lên.
Dĩ nhiên có một số sự kiện lịch sử trước và sau 1975 vẫn chưa được soi sáng đầy đủ và chưa có nhận định thống nhất từ nhiều phía do tính chất mù mờ phức tạp của lịch sử và quan điểm, chính kiến của người trong cuộc. Tuy nhiên tâm trạng rơ rệt của những người chống cuốn sách vẫn là phe ta, đường lối chính sách của phe ta có chính nghĩa, ai nói khác đi đều là thứ phản bội, tội đồ của dân tộc. Chính điều này đă góp phần làm lịch sử “giẫm chân tại chỗ” khi đáng lư phải vùng vẫy thoát ra khỏi vũng bùn của máu và nước mắt.
Về tựa đề Bên thắng cuộc và tên hai phần của cuốn sách (Giải phóng và Quyền bính), có lẽ tác giả Huy Đức đă nghiền ngẫm sâu xa và sự lựa chọn có sức gợi nhiều ư nghĩa.
Bên thắng cuộc v́ sau 1975 đất nước thuộc về bên thắng cuộc, bên phải chịu tránh nhiệm trước dân tộc và lịch sử, hiện tại và mai sau. Tác giả là người đă trưởng thành, làm việc và chiêm nghiệm trong bộ máy cai trị, có cái nh́n cận cảnh từ bên trong, hi vọng có thể đưa ra một tiếng nói về sự thật, khác với tiếng loa đồng ca một chiều đinh tai nhức óc như h́nh chụp dùng làm b́a cho tác phẩm.
Giải phóng nhưng những điều diễn ra sau đó với cải tạo, vượt biên, đánh tư sản, ngăn sông cấm chợ… lại không hề mang ư nghĩa giải phóng. Ngược lại thực tế đă chứng minh nhân dân Miền Nam và cả nước lại đi vào ṿng trói buộc, vào cảnh tŕ trệ thay v́ cất cánh như đáng ra phải có sau khi đă “thống nhất đất nước, quy giang sơn về một mối”. Chưa kể đến gợi ư trong lời mở đầu của tác giả, đây là Miền Bắc giải phóng Miền Nam hay ngược lại.
Quyền bính bộc lộ bản chất của một tập đoàn khi đă nắm được quyền lực cai trị. Tŕnh độ kém cỏi trong xây dựng đất nước thời b́nh, bệnh giáo điều, chủ quan duy ư chí và kiêu ngạo cộng sản; sự quyết đoán của những cá nhân lănh đạo không đủ tầm và tâm; các cuộc đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực; “lỗi hệ thống” mang tính bao trùm mà những cá nhân dù có thiện chí và ư chí cũng không sao xoay chuyển…
Trong Quyền bính không phải không có những điều tích cực nói về những người lănh đạo và những người cộng sản. Sinh ra và trưởng thành trong nô lệ và chiến tranh, nhiều người không được học hành. Họ thường xuất thân là nông dân nghèo, làm thuê, ở đợ rồi “tham gia cách mạng”. Không được học hành không phải lỗi ở họ. Tuy nhiên sau đó họ đă học trong trường đời và đấu tranh cách mạng, với ư chí kiên cường, chịu đựng gian khổ và chấp nhận hi sinh lớn lao. Khi ở vai tṛ lănh đạo, nhiều người cũng đă hết sức ưu tư về t́nh h́nh đất nước, khiêm tốn học hỏi, lắng nghe các trí thức chuyên gia để t́m ra những quyết sách đúng. Tác giả cũng đă không giấu thiện cảm đối với một số người, đặc biệt đối với cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt.
Đội ngũ các chuyên gia và các trí thức tham mưu cũng đă ra sức t́m ṭi cái mới của thời đại, học hỏi các nước láng giềng và phương Tây, tham mưu cho lănh đạo thoát khỏi bế tắc. Nổi bật là vấn đề kinh tế thị trường, cho dù vẫn c̣n “cái đuôi định hướng xă hội chủ nghĩa”, sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến, đa phương hóa, từng bước đi vào hội nhập toàn cầu. Kết quả dù quá chậm nhưng đất nước đă không rơi vào vực thẳm.
Tuy nhiên mọi cố gắng đó đều chỉ đạt thành tựu rất thấp, không tương xứng với năng lực của một dân tộc không kém cần cù và thông minh so với bất cứ dân tộc nào khác, sau khi đất nước đă thống nhất. Nguyên nhân chính là “lỗi hệ thống”, bắt nguồn từ sự độc tài đảng trị, bám chặt giáo điều cổ hủ v́ sợ “chệch hướng xă hội chủ nghĩa” và sự vận hành của guồng máy đă đè bẹp mọi cá nhân có ư muốn cưỡng lại, cho dù họ ở cấp cao nhất như Vơ Văn Kiệt, Trần Xuân Bách, Trần Độ…
Bên cạnh đó, v́ liên minh ư thức hệ và muốn có chỗ dựa để giữ vững độc quyền lănh đạo, những người cộng sản cầm quyền đă lọt vào gọng kềm của Trung Quốc, trở thành một mối họa lớn cho dân tộc. Đảng Cộng sản rơi vào t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan, loay hoay giữa hai nguy cơ “mất nước hay mất Đảng”.
Tác giả Bên thắng cuộc không minh nhiên nói ra những điều trên nhưng qua những ǵ được tŕnh bày một cách khách quan, chi tiết, cả chiều rộng và chiều sâu, người đọc có thể cảm nhận rất rơ thông điệp nào đă được gởi đi từ cuốn sách.
Cho dù những điều trên là đúng như thế, tác giả có phải là một kẻ nói xấu Đảng, phản bội đất nước như một số báo chí trong nước quy chụp, hay là một tên cộng sản tay sai tuyên truyền cho Nghị quyết 36 như một số người ở hải ngoại quy kết? Thật nực cười khi có hai kết luận trái ngược nhau như thế về cùng một cuốn sách và một tác giả.
Lịch sử đă qua và đang đi qua từng ngày. Phải nhận rơ quá khứ nhưng càng phải thấy rơ hơn bước đi cho hiện tại và tương lai. Hận thù hay kiêu căng về quá khứ để tranh phần chính nghĩa không ích lợi ǵ cho số phận và tương lai dân tộc. Thực tế lịch sử, những người cộng sản đă là bên thắng cuộc và cũng thực tế họ đang đưa đất nước vào nguy cơ. Vấn đề là phải làm ǵ có hiệu quả để giải quyết nguy cơ trước mắt và kiến tạo tương lai chứ không phải nguyền rủa nhau. Đọc Bên thắng cuộc chính là cơ hội để mọi người nh́n lại toàn bộ t́nh h́nh một cách tỉnh táo.
Trong những ngày tháng gần đây không ít người thuộc nhiều thành phần, trước hết là trí thức và đảng viên có lương tri thực sự lo cho dân tộc đă đặt ra những vấn đề cấp thiết, đặc biệt mới nhất trong Lời kêu gọi thực thi quyền con người và Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992: Dân chủ hóa đất nước, chống độc tài đảng trị, giải quyết nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa đến tham nhũng, kinh tế suy thoái, văn hóa, đạo đức xă hội trên đà băng hoại, trước mắt cấp bách là chống Trung Quốc xâm lược.
Đây là nhiệm vụ của toàn dân tộc không trừ bất kỳ ai, kể cả Đảng Cộng sản cầm quyền nếu Đảng muốn c̣n tồn tại dù có cầm quyền hay không. Ai phá hoại nhiệm vụ này mới là kẻ phản bội tổ quốc.