vvsaola
member
ID 9128
01/14/2006
|
tương tiến tửu
ngày xuân gần kề, vvsaola mượn chuyện chuyện bia ruợu để nói bài thơ TƯƠNG TIẾN TỬU cùa nhà thơ Lí Hạ.
trong lsử văn học Trung Quốc có 3 nhà thơ được thần thánh hóa:
1.thi tiên :Lí Bạch
2.thi phật :Vương Duy
3.thi thánh:Đỗ Phủ
nhưng c̣n một vị nữa cũng được người đời kính trọng với các bài thơ đọc lên sẽ làm rợn người nghe, đó là LÍ HẠ biệt phong là thi quỷ.
TƯƠNG TIẾN TỬU.
Lưu ly chung
Hổ phách nùng
Tiểu tao tiểu tích trân châu hồng
Phanh long pháo phượng ngọc chi khấp
La vi tú mạc la xuân phong
Xuy long địch, xích đà cổ
Hạo xỉ ca, tế yêu vũ
Huống thị thanh xuân ngọc tương mộ
Đào hoa loạn phi như hồng vũ
Khuyến quân minh nhật mính đính túy
Tửu bất dáo lưu linh phần thượng thổ.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
bachkim
member
REF: 65248
01/15/2006
|
Xin chào!
Ta nghĩ chắc bạn là người tửu lượng và thơ văn cao lắm nên mới biết những nhân vật này.
Ta th́ Nữ Nhi Hồng nên cũng không dám cụng ly với bạn đâu! Nhưng ta cũng biết một ít thi nhân gắn liền với rượu như bạn đă kể trên ta chỉ bổ túc thêm thôi. Có điều ǵ sơ sót th́ tha mạng cho nhé! Ta không dám "múa rừu qua mắt thợ" đâu!
Tương Tiến Tửu, Vương Duy (Tống Biệt, Bạc Tần Hoài (Đỗ Mục)
Nói Đến Nguyệt Hạ Độc Chước (Lư Bạch) người được mệnh danh trích tiên, là tửu thánh, say sưa quá nên nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết đuối.
C̣n đời nhà Tẫn Th́ có Lưu Linh, Nguyễn Tịch uống hàng trăm chén rượu không say. Ngoài ra c̣n có vợ của Tô Đông Pha cũng được nỗi tiếng hiền đức là nhờ biết để dành một ṿ rượu ngon và đem ra đúng lúc chồng cầ thù tạc với bạn bè trong một ngày giá rét. Ta cũng đang bắt chước vợ của Tô Đông Pha thử xem sao!
Hahahhahahaha......
|
|
vvsaola
member
REF: 65266
01/15/2006
|
TƯƠNG TIẾN TỬU (MỜI RƯỢU), có rất nhiều bài thơ có chủ đề tương tự. nhưng bài thơ này của nhà thơ Lí Hạ th́ chỉ trong những văn chương sách cổ mới nhắc tới, cho nên vvsaola nêu ra để bà con tham khảo và dịch giải.
thân mến bachkim!
|
|
vvsaola
member
REF: 65273
01/15/2006
|
tạm dịch nghĩa:
Mời rượu.
Chén rượu làm bằng ngọc lưu li, làm bằng hổ phách
Những giọt rựu c̣n sót lại trông như những giọt hồng ngọc
Làm thịt rồng, mổ gan phượng, nướng mỡ nó cho réo trên bếp
Tấm rèm pḥng lay động là do làn gió xuân
Bứt gân rồng, vỗ lên cái trống làm bằng da cá sấu
Những cái miệng của ca nữ, những cái hông của vũ nữ
Những ngày thanh xuân th́ sẽ không trở lại
Những cánh hoa đào bay lả tả như cơn mưa hồng
Nhắn người quân tử cứ uống say tuư luư
Bởi v́ rựu không thể chảy trên nấm mộ lưu linh.
Trên đây là bài dịch nghĩa, bạn nào có nhă ư th́ xin mời chuyển thành thơ.
Vvsaola than ái!!!
|
|
vvsaola
member
REF: 68759
02/15/2006
|
Dịch Thơ
Mời uống rượu
Chén lưu ly
Rượu ngon nồng
Thùng rượu tuôn giọt trân châu hồng
Giết rồng nướng phụng mỡ khóc nấc
Màn là trướng vũ vây xuân phong
Thổi sáo rồng, vỗ trống lụa
Cùng hát lên
Eo thon múa
Huống hồ tuổi xuân đang tàn úa
Hoa đào rơi loạn mưa tua tủa
Mời anh suốt ngày say mệt mê
Đừng mong rượu tưới Lưu Linh mộ.
|
|
vvsaola
member
REF: 68760
02/15/2006
|
Dịch thơ: Nguyễn Tôn Nhan
Chén lưu ly rượu nồng hổ phách
Rượu trân nồng lách tách giọt rơi
Xẻ rồng nướng phượng mà chơi
Lắng nghe mỡ ngọc trong nồi khóc than.
Vây gió xuân bằng màn cẩm tú
Răng trắng ca, điệu vũ lưng thon
Huống ǵ xuân đă hoàng hôn
Đào hoa lả tả trận hồng loạn rơi.
Xin anh say tít đất trời
Rượu đâu đến được mộ người Lưu Linh.
|
|
vvsaola
member
REF: 68767
02/15/2006
|
Trường ca tục đoản ca
Trường ca phá y khâm
Đoản ca đoạn bạch phát
Tần Vương bất khả kiến
Đán tịch thành nội nhiệt
Khát ẩm hồ trung tửu
Cơ bạt lũng đầu lật
Thê lương tứ nguyệt lan
Thiên lư nhất thời lục
Dạ phong hà ly ly
Minh nguyệt thạch lạc để
Bồi hồi duyên thạch tầm
Chiếu xuất cao phong ngoại
Bất đắc dữ chi du
Ca thành mấn tiên cải
Dịch Nghĩa
Trường ca nối tiếp đoản ca
Trường ca làm rách cả tay áo
Đoản ca làm găy cả những sợi tóc bạc
Tần Vương không thể gặp mặt
Sáng chiều trong ḷng nôn nóng
Khát th́ uống rượu trong hồ
Đói th́ nhổ cây giẻ đầu Lũng
Tháng tư buồn bă đi qua
Ngàn dặm chỉ thấy một màu xanh
Gió đêm thổi sao xa cách
Ánh trăng sáng rơi xuống thềm đá
Bồi hồi theo đá mà đi
Trăng chiếu sáng bên ngoài ngọn núi cao
Không được cùng ( trăng ) dạo chơi
Ca xong bài th́ tóc đă đổi màu
Dịch Thơ
Trường ca tay áo tan
Đoản ca dứt tóc trắng
Không gặp được Tần Vương
Sáng chiều dạ nôn nóng
Khát uống rượu trong hồ
Đói ăn giẻ đầu Lũng
Tháng tư buồn đă qua
Ngàn dặm màu xanh lục
Gió xa thổi trong đêm
Ánh trăng rơi thềm đá
Tần ngần nương đá t́m
Trăng chiếu mênh mông quá
Không cùng trăng dạo chơi
Ca xong tóc bạc cả.
Bản dịch: Huỳnh Ngọc Chiến
|
|
vvsaola
member
REF: 68889
02/15/2006
|
Tiểu Sử
Thi Quỷ Lư Hạ ( 79?-81? )
Thi Phật Vương Duy, Thi Tiên Lư Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Quỷ Lư Hạ. Thiên cơ khéo sắp đặt cho bốn thiên tài Phật Tiên Thánh Quỷ cùng tụ hội nhau trong một giai đoạn hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Thi Phật, Thi Tiên, Thi Thánh mọi người đă nghe nhắc đến nhiều, Thi Quỷ Lư Hạ chắc vẫn c̣n xa lạ với các bạn yêu thích thơ Đường.
Lư Hạ thuộc ḍng dơi tôn thất nhà Đường, cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, khi mới lên bảy đă biết làm thơ. Danh sĩ đương thời là Hàn Dũ nghe tiếng Hạ bèn cùng Hoàng Phủ Thực đến nhà. Hai người muốn thử tài nên bắt Hạ làm thơ. Hạ thản nhiên cầm bút viết ngay bài Cao Hiên Quá tŕnh lên, hai ông xem xong đều kinh hoảng. Bài thơ Cao Hiên Quá có những câu vô cùng kỳ dị, nếu đúng là do một cậu bé làm ra như giai thoại được kể trong Thái B́nh Ngự Lăm th́ hai nhà thơ đương thời có kinh tâm động phách cũng là điều dễ hiểu:
Điện tiền tác phú thanh ma không
Bút bổ tạo hoá thiên vô công
Trước nhà, làm thơ tŕnh, thanh âm của bài thơ chạm vào bầu trời
Ngọn bút bổ sung những chỗ khiếm khuyết bất toàn của tạo hoá một cách dễ dàng, không tốn chút công sức.
Theo tiểu truyện về Lư Hạ do Lư Thương Ẩn - một nhà thơ lớn thời Văn Đường - viết, th́ khi Lư hạ bệnh nặng, bỗng có một vị tiên mặc áo lụa đào, cưỡi con cù long màu đỏ, bay đến bên cửa, cầm một cuốn sách, chữ giống như chữ triện thời thái cổ, trao cho Lư Hạ và nói: " Thượng đế đă cho xây xong lầu Bạch Ngọc, xin mời ông lên gấp để viết cho bài kư." ( Đế thành Bạch Ngọc lâu, lập quân chiêu vi kư "). Lát sau Lư Hạ mất. Người nhà thấy hơi và khói thấp thoáng qua cửa sổ, và nghe tiếng xe đi trong tiếng sáo réo rắt. Trong lịch sử Đường thi, có lẽ chỉ có Thi Tiên Lư Bạch và Thi Quỷ Lư Hạ mới có huyền thoại chung quanh cái chết mà thôi. Một người nhày xuống sông ôm trăng rồi cưỡi con ḱnh ngư lên cơi thiên khung ( tương truyền khi Lư Bạch nhảy xuống sông ôm trăng th́ có con ḱnh ngư tới đón và chở lên trời. Tô Đông Pha có nói: Văn đạo kỵ ḱnh du Hăn mạn ( Nghe nói ông cỡi ḱnh ngư rong chơi cơi trời Hăn mạn )), một người được Thượng đế cho tiên nhân đem xe nhạc đến mời lên viết bài kư cho lầu Bạch Ngọc chốn thiên đ́nh. Ai dám khẳng định điều đó là hoang đường không thực, khi mà cơi đời tự bản chất đă là sắc sắc không không ?
.Tựa Lư Hạ thi tập
Đỗ Mục
Tháng 10 năm Thái Hoà thứ năm ( 831 ), nửa đêm bỗng nghe ngoài nhà có tiếng gọi gấp ra nhận thư, Mục lấy làm lạ, thắp đuốc ra gặp. Quả nhiên, Tập hiền học sĩ Thẩm công tử tên là Minh gởi thư. Thư viết: "Người bạn đă mất thời Nguyên Hoà của tôi là Lư Hạ, trung nghĩa rất mực, tôi vô cùng yêu mến, sáng chiều cùng nhau chung sống ăn uống. Hạ đă mất, có để lại cho tôi các thi ca sáng tác thuở b́nh sinh gồm bốn quyển, khoảng hai trăm ba mươi ba bài. Trải qua bao năm, lưu lạc bốn phương ngỡ đă làm mất. Đêm nay, tỉnh rượu, không thể ngủ lại được, bèn xem lại các ḥm sách, bỗng gặp lại các bài thơ mà Lư Hạ đă giao cho tôi. Nhớ lại chuyện cũ, đă cùng Hạ đàm đạo, rong chơi, sáng chiều cùng nhau say bên hồ rượu, hiện ra rơ ràng như ngày chưa mất, bất giác nhỏ lệ. Hạ vốn không có gia đ́nh, chỉ có con em cấp dưỡng an ủi. Tôi thường nghĩ đến người, đọc đến thơ mà thôi. Ông đối với tôi giao t́nh rất hậu, hăy v́ tôi viết lời tựa cho tập thơ Lư Hạ, nói cho hết được cái nguyên do cùng nói đại lược được cái ư của tôi".
Trong tối hôm đó, Mục viết thư trả lời không thể được. Hôm sau, đến gặp công tử, nói: " Người đời nói rằng Lư Hạ tài năng tuyệt diệu". Được vài ngày, Mục tới nói rằng: " Ngài đối với thơ đă biết nhiều hiểu rộng và thâm hiểu đến chỗ sâu xa, lại thấy rơ được chỗ được chỗ mất, lẫn cái sở trường sở đoản của Lư Hạ. Hôm nay quả thực không nhường cho ngài th́ không được, không rơ ư ngài ra sao ?". Lại xin từ tạ, nói hết lư do không dám viết lời tựa. Công tử trả lời: " Nếu ông cố chấp như thế, là khinh rẻ tôi". Do đó Mục không thể từ chối, gắng gượng v́ Lư Hạ mà viết lời tựa, rốt cuộc trong ḷng vô cùng xấu hổ.
"
Lư Hạ là con cháu hoàng tộc nhà Đường, tự là Trường Cát. Năm Nguyên Hoà, Hàn lại bộ ( Hàn Dũ, một đại văn gia đời Đường ) cũng đă có nói về thơ ca Lư Hạ. Đối với thơ ca Lư Hạ th́ mây khói, gấm liền không đủ để nói lên cái văn thái; ḍng nước mênh mông không đủ để nói lên t́nh cảm; vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân không đủ nói lên sự hài hoà; sự thanh khiết của mùa thu không đủ để nói lên phong cách; gió thổi qua tường, ngựa phi từng đàn không đủ đề nói lên nét mạnh mẽ; quan tài bằng ngói, đỉnh khắc chữ triện không đủ để nói lên vẻ cổ kính; hoa nở đúng thời, người đẹp không đủ để nói lên sắc thái; vường hoang điện phế, cỏ cây đồi lũng không đủ nói lên nỗi niềm t́nh oán bi sầu; cá ḱnh hút nước, rùa lớn vẫy vùng, ma trâu, thần rắn không đủ để nói lên vẻ hoang lương quái đản mà kỳ ảo. Cho nên là hàng miêu duệ của Ly Tao, dù về nghĩa lư tuy không bằng nhưng ngôn từ có chỗ hơn cả Ly Tao. Ly Tao có điểm cảm oán, phúng thích, đề cập đến nghĩa vua tôi, về lư có thể kích phát được được ḷng người thời loạn, đó là chỗ Hạ chưa đạt được vậy. Hạ hay t́m ṭi việc đời trước, cho nên thường than thở, hận rằng xưa nay chưa có ai nói đến. Như các bài ' Kim đồng tiên nhân từ Hán ca ' bổ sung được cho các bài ca thuộc thể cung đ́nh của Dữu Kiên Ngô đời Lương ( Dữu Kiên Ngô là nhà thơ khá nổi tiếng, ông là thân phụ của một nhà thơ lớn khác thời Nam Bắc triều là Dữu Tín ), chỉ cần giữ được t́nh trạng, xa ĺa con đường bút mực hẹp ḥi, đó là điểm đặc thù khó hiểu được ông.
Hạ sống có hai mươi bảy năm th́ qua đời. Người đời đều nói: " Nếu Hạ chưa mất, thêm một phần lư vào thơ nữa th́ có thể tạm nối nghiệp được Ly Tao vậy."
Mười lăm năm sau khi Hạ mất, Đỗ Mục người Kinh Triệu viết lời tựa này.
|
|
vvsaola
member
REF: 68891
02/15/2006
|
古悠悠行
白景歸西山
碧華上迢迢
古今何處盡
千歲隨風飄
海沙變成石
魚沫吹秦橋
空光遠流浪
銅柱從年消
CỔ DU DU HÀNH
Bạch cảnh quy Tây sơn
Bích hoa thượng thiều thiều
Cổ kim hà xứ tận
Thên tuế tùy phong phiêu
Hải sa biến thành thạch
Ngư mạt hấp Tần kiều
Không hoa viễn lưu lăng
Đồng trụ ṭng niên tiêu
Dịch Nghĩa
Mặt trời đă lặn về non Tây
Bầu trời đêm quá mênh mông
Đâu là nơi cùng tận của cổ kim ?
Ngàn năm bay theo cánh gió
Cát biển đă biến thành đá
Cá đang hút bọt ở cầu Tần (1)
Năm tháng trôi đi chóng vánh
Trụ đồng (2) tiêu tan dần theo năm tháng
(1) Tần Thủy Hoàng lên núi Thanh Thành, cho xây cầu đá dài 30 dặm
(2) Về trụ đồng có nhiều truyền thuyết. Có người cho rằng đó là trụ đồng của tượng đồng trong bài Kim đồng tiên nhân từ Hán ca.
Dịch Thơ
Bài hát thiên cổ mênh mang
Mặt trời lặn non Tây
Mênh mông mây đêm bay
Cổ kim nơi nào hết ?
Ngàn năm ngọn gió lay
Cát biển biến thành đá
Cầu Tần cá lượn bầy
Thời gian trôi chóng vánh
Trụ tiêu theo tháng ngày
Dịch thơ : Huỳnh Ngọc Chiến
|
|
vvsaola
member
REF: 68895
02/15/2006
|
KIM ĐỒNG TIÊN NHÂN TỬ HÁN CA.
Mậu Lăng Lưu lang thu phong khách
Dạ văn mă tê hiểu vô tích
Họa lan quế thụ huyền thu hương
Tam thập lục cung thổ hoa bích
Ngụy quan khiên xa chỉ thiên lư
Đông quan toan phong tạ mâu tỉ ( tử )
Không tương Hán nguyệt xuất cung môn
Ức quân thanh lệ như duyên thủy
Suy lan tống khách Hàm dương đạo
Thiên nhược hữu t́nh thiên diệc lăo
Huề bàn độc xuất nguyệt hoang lương
Vị thành dĩ viễn thanh ba tiểu
Dịch Nghĩa
Lư Hạ tự chú: Tháng tám, năm Thanh Long nguyên niên đời Ngụy Minh đế, vua hạ chiếu sai các quan trong cung dùng xe về phía Tây, đem tượng tiên nhân cầm mâm vàng hứng sương của Hán Vũ đế, về đặt trước cung điện, các cung quan làm găy mâm, khi xe chuẩn bị kéo đi, tượng tiên nhân bỗng nhiên ngậm ngùi nhỏ lệ. Cháu trong hoàng tộc nhà Đường là Lư Trường Cát bèn làm bài thơ về pho tượng tiên nhân bằng đồng rời cung Hán:
Khách trong gió thu là Hán Vũ đế nơi Mậu Lăng
Đêm đêm nghe tiếng ngựa hí quanh nấm mộ, sáng ra không thấy c̣n dấu vết nào nữa.
Hương mủa thu c̣n phảng phất nơi lan can có nhiều h́nh vẽ và trên cây quế
Ba mươi sáu cung đất đều phủ rêu xanh
Ngụy quan kéo xe, đưa tay chỉ ngoài ngàn dặm
Nơi cửa Đông, ngọn gió đắng cay ngậm ngùi chia tay cùng ánh mắt
Khi sắp cùng vần trăng cung Hán khi rởi khỏi cửa cung
Tượng đồng nhớ vua, giọt lệ trong nhỏ xuống ướt đền như nước chảy
Trên đường Hàm Dương khóm lan gầy tiễn khách
Nếu trời có tính trời ắt cũng phải già đi v́ thương xót cuộc chia ly
Tượng đồng ôm mâm vàng đi lẻ loi một ḿnh dưới ánh trăng hoang lương
Vị thành đă xa rồi, tiếng sóng vỗ nghe nhỏ dần
Hán Vũ đế là vị vua hùng tài đại lược, có công trùng hưng Hán thất, đưa Trung Quốc đến buổi hoàng kim. Thuở sinh tiền, do ngạo khí kiêu hùng của bậc đế vương, muốn ḿnh sánh ngang cùng trời đất nên Hán Vũ đế cho dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện thuốc trường sinh bất lăo. Khi Vũ đế qua đời, người ta vẫn hằng đêm nghe tiếng ngựa hư ở nấm mộ của ông ở Mậu Lăng, sáng ra không c̣n dấu vết. Đến năm Thanh Long nguyên niên (233), Ngụy Minh đế Tào Toàn - người kế nghiệp Tào Phi - hạ chiếu cho người kéo tượng đồng về đặt trước cung điện ḿnh. Khi quân kéo tượng đi bỗng nhiên pho tượng ngậm ngùi nhỏ lệ. Lư Hạ cảm thán làm bài này.
Dịch Thơ
Khách gió thu Mậu Lăng Lưu Vũ đế
Đêm ngựa về, sáng sớm đă mù tăm
Hương thu thoảng hoạ lan cùng cành quế
Ba sáu cung nền đất phủ rêu xanh
Xe kéo đi đường xa ngoài ngàn dặm
Gió cửa đông cùng ánh mắt chia phôi
Buồn theo ánh trăng suông rời cung Hán
Lệ ướt đầm thương nhớ lắm người ơi
Đường Hàm Dương cánh lan gầy tiễn khách
Trời có t́nh trời hẳn cũng già thôi
Trăng hoang vắng ôm mâm vàng cô lẻ
Rời Vị thành, nghe sóng vỗ xa khơi
Dịch thơ: Huỳnh Ngọc Chiến
|
|
vvsaola
member
REF: 69674
02/20/2006
|
Mộng thiên
Lăo thỏ hàn thiềm khấp thiên sắc
Vân lâu bán khai bích tà bạch
Ngọc luân loát lộ thấp đoàn quang
Loan bội tương phùng quế tương mạch
Hoàng trần thanh thủy tam sơn hạ
Canh biến thiên niên như tẩu mă
Dao vọng Tề Châu cửu điểm yên
Nhất hoằng hải thủy bôi trung tả
Dịch Nghĩa
Lăo thỏ hàn thiềm khấp thiên sắc
Vân lâu bán khai bích tà bạch
Ngọc luân loát lộ thấp đoàn quang
Loan bội tương phùng quế tương mạch
Hoàng trần thanh thủy tam sơn hạ
Canh biến thiên niên như tẩu mă
Dao vọng Tề Châu cửu điểm yên
Nhất hoằng hải thủy bôi trung tả
Dịch Thơ
Mộng lên trời
Thiềm thừ, ngọc thỏ tràn đôi lệ
Tường bạc chênh chênh cung mây hé
Vành ngọc miết sương, bóng ướt đầm
Gặp tiên trên đường ngát mùi quế
Bụi vàng nước thẳm dưới Tam Sơn,
Dâu bể nǵn năm, ngựa chạy bon
Chín châu nh́n như chín chấm khói
Biển cả rót vào cái chén con
Bản dịch: Châu Giang và Tương Như
|
|
venus0712
member
REF: 74467
03/24/2006
|
Bé út xin đóng góp thêm vài bài của thi quỷ Lư Hạ cho "đủ bộ":
*************************************************
XƯƠNG CỐC BẮC VIÊN TÂN DUẨN
Chước thủ thanh quang tả " Sở từ "
Nhị hương xuân phấn hắc li li
Vô t́nh hữu hận hà nhân kiến
Lộ áp yên đề thiên vạn chi
Dịch nghĩa:
MĂNG TRE MỚI NƠI VƯỜN BẮC XƯƠNG CỐC
Bóc nhẹ tre cho da tre xanh nhẵn bóng, viết bài " Sở từ "
Hương nồng đượm, phấn ngày xuân, nét mực đen lắy
(Trên da tre) vô t́nh có bài thơ đầy cảm hận nhưng liệu mấy ai nh́n thấy ?
Móc sa, khói phủ lấp cả ngàn muôn cành
Dịch thơ
MĂNG MỚI VƯỜN BẮC XƯƠNG CỐC
Bóc sạch tre non viết "Sở từ "
Hương thơm, phấn mịn, chữ đen ś
Tre mang mối hận nào ai biết
Sương khói muôn cành lấp hẳn đi
Châu Giang và Tương Như dịch
- Vườn Bắc Xương Cốc: Chỗ ở của Lư Hạ , tại phía tây huyện Nghi Dương tỉnh Hà Nam
- Sở từ : tên một thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ Khuất Nguyên . Đây có nghĩa là bài thơ hay .(Khuất Nguyên khởi xướng thể loại Sở Từ, do bị Sở Hoài Vương nghe lời dèm pha mà cách chức ông, nên buồn bả làm ra bài Ly Tao [?離騷] tự thán. Người sau này bắt chước theo lối của ông viết, nên tạo ra thể loại Sở Từ).
**************8888888***************
NAM VIÊN
Hoa chi thảo mạn nhăn trung khai,
TIểu bạch trường hồng Việt nữ khai .
Khả liên nhật mộ yên hương lạc,
Giá dữ xuân phong bất dụng môi.
Dịch nghĩa:
Vườn phía Nam
Nhánh hoa, nơn cỏ trước mắt khoe tươi,
Nhỏ to trắng hồng như má cô gái nước Việt (1)
Đáng thương đến chiều tối mầu đẹp hương thơm đều tàn tạ
Bị gả cho gió xuân mà không cần tới mai mối,
(1) Chỉ Tây Thi quê dất Việt
Dịch Thơ:
TRước mắt trên cành cỏ nở bông ,
Má cô gái Việt trắng pha hồng .
Thương thay chiều tối hương rơi rụng,
Không mối mà đi lấy gió đông .
(Châu Giang )
********************************************************888
Thôi bảng độ Ô giang
Thần truy khấp hướng phong
Quân vương kim giải kiếm
Hà xứ trục anh hùng.
Dịch Nghĩa
Giục đẩy thuyền qua sông Ô Giang
Con ngựa thần truy hướng về ngọn gió mà khóc
Quân vương nay đă cởi kiếm
C̣n biết đuổi theo anh hùng ở nơi nào?
Dịch Thơ :
Thơ về ngựa
Đẩy thuyền qua bến Ô Giang
Ngựa thần hướng mặt gió tràn lệ rơi
Quân vương nay cởi kiếm rồi
C̣n đâu rong ruổi theo người hùng anh?
Bản dịch của Lăng Xẹt Tử
********************************************************888
MỘ TÔ TIỂU TIỂU
Vô vật kết đồng tâm
Yên hoa bất kham tiễn
Thảo như nhân, tùng như cái
Phong vi thường, thủy vi bội
Du bích xa, tịch tương đăi
Lănh thúy chúc, lao quang thái
Tây lăng hạ, phong xuy vũ.
Dịch Nghĩa
Mộ Tô Tiểu Tiểu (1)
Sương trên cánh lan buồn, trông như giọt lệ trong mắt
Không có ǵ để kết mối đồng tâm
Làm cánh hoa trong khói, không chịu cắt bỏ đi
( Nơi nấm mộ ) cỏ mượt như tấm thảm, cây thông đứng như dù che
Gió là quần áo, nước là vật trang sức
Chiếc xe du bích (2) cùng hẹn đến tối đợi nhau
( Trên mộ ) lập loè ánh lửa ma trơi
Dưới Tây lăng, gió thổi mưa.
(1) Tô Tiểu Tiểu: người Nam Tề, danh kỹ đất tiền Đường
(2) Xe du bích là xe có bôi thêm dầu màu xanh
Theo Nhạc phủ quảng kư th́ Tô Tiểu Tiểu, người Nam Tề, là danh kỹ tài hoa đất Tiền Đường. Tô có bài ca:
Ngă thừa du bích xa
Lang thừa thanh thông mă
Hà xứ kết đồng tâm
Tây lăng tùng bách hạ
( Thiếp đi xe du bích, chàng cưỡi ngựa trắng, nơi nào ta có thể kết mối đồng tâm? Đó là dưới cây thông cây bách chốn Tây lăng )
Dịch Thơ
Mộ Tô Tiểu Tiểu
Lan đọng sương, như giọt lệ
Lấy ǵ kết đồng tâm
Yên hoa đâu nỡ dứt ?
Cỏ như tơ, thông che mát
Nước điểm trang, áo là gió
Xe du bích, hẹn đêm tối
Lửa ma trơi, mưa ngậm ngùi
Chốn Tây lăng, trong gió thổi
Dịch thơ: Huỳnh Ngọc Chiến
**************************************************8
ĐIỆU TẨU MĂ DẪN
Ngọc phong kham tiệt vân
Tương Dương tẩu mă khách
Ư chí tự sinh xuân
Triêu hiềm kiếm hoa tĩnh
Mộ hiềm kiếm quang lănh
Năng tŕ kiếm hướng nhân
Bất giải tŕ chiếu thân
Dịch Nghĩa
Ta có thanh gươm khi rời bỏ quê hương
Mũi gươm sáng như ngọc có thể cắt đứt cả mây
(Ta như) người cỡi ngựa chạy ở thành Tương Dương
Ư chí phơi phới như mùa xuân
Buổi sáng không vừa ư v́ ánh sáng hoa văn thanh gươm tĩnh lặng
Buổi chiều không vừa ư v́ ánh sáng thanh gươm lạnh lẽo
(Ta chỉ) có thể giữ thanh gươm chiếu sáng cho người khác
Chứ không biết giữ thanh gươm chiếu sáng cho chính ḿnh
Dịch Thơ
BÀI HÁT CƯỠI NGỰA HAY
Ta có từ hương kiếm
Mũi ngọc cắt được mây
Tương Dương khách cỡi ngựa
Chí tựa gió xuân bay
Sáng buồn kiếm yên tĩnh
Chiều bực kiếm lạnh đầy
Kiếm chiếu được người khác
Không chiếu được thân này
Bản dịch: Huỳnh Ngọc Chiến
Ghi chú:
Theo Cổ kim chú th́ điệu Tẩu mă dẫn do Ngưu Cung sáng tác. Ngưu Cung v́ báo thù cha mà phải giết người. Ban đêm có ngựa từ trên trời giáng xuống, vây quanh ngôi nhà Cung mà hí. Ngưu Cung nghe, tưởng quan binh đến bắt, bèn bỏ trốn. Sáng ra thấy dấu chân ngựa, sung sướng tỉnh ngộ mà nói rằng: “Há là chỗ ta ở chăng ? Nguy rồi vậy !”. Rồi mang lương thực quần áo trốn vào Nghi đàm, đánh đàn gơ trống giả như tiếng ngựa, mà làm ra điệu Tẩu mă dẫn.
******************************************************8
THỤC QUỐC TI
Cẩm thủy Nam sơn ảnh
Kinh thạch trụy viên ai
Trúc vân sầu bán lĩnh
Lương nguyệt sinh thu phố
Ngọc sa lân lân quang
Thùy nhân hồng lệ khách
Bất nhẫn quá Cù đường
Dịch Nghĩa
Thục Quốc Ti (1)
Mùi thơm cây phong tỏa trong bóng chiều yên tĩnh
Bóng ngọn núi Nam soi xuống ḍng sông Cẩm thủy (2)
Những tảng đá ghê người, những con vượn treo ḿnh cất tiếng hú bi ai
Cây trúc chen lẫn với mây giữa sườn non thật buồn
Bóng trăng chiếu bến nước mùa thu
Cát lấp lánh trong ánh trăng trông như những hạt ngọc
Ai là người khách lệ hồng (3)
C̣n chần chờ chốn Cù Đường (4) không chịu đi qua?
---
(1) Thục quốc ti là một thể loại nhạc phủ
(2) Trạc Cẩm giang tức là Thục giang, chảy đến Cẩm thủy, nước long lanh như màu gấm, nên có tên là Trạc Cẩm giang ( Cẩm thủy )
(3) Theo Thập di kư: Tưởng Linh Vân khi chia tay cha mẹ quyến luyến không nỡ dứt, khóc ướt cả áo. Khi lên xe, lấy b́nh ngọc hứng nước mắt, thấy có màu hồng. Đến kinh đô th́ nước mắt ngưng lại thành máu.
(4) Địa danh tại Qùy Châu
Dịch Thơ
Thục quốc ti
Hương phong lặng bóng hoa chiều
Cẩm giang soi bóng nước triều Nam sơn
Trúc mây buồn giữa sườn non
Kinh người đá dựng, năo hồn vượn kêu
Trăng thanh bến nước thu gieo
Cát ngọc lấp lánh trong veo giữa ḍng
Hỡi ai là khách lệ hồng
Trù trừ giữa chốn Cù Đường không qua?
Dịch thơ ( Huỳnh Ngọc Chiến )
*********************************************8
THU ĐÁO
Ai đăng lạc vĩ đề hàn tố
Thùy khan thanh giản nhất biên thư
Bất khiển hoa trùng phấn không đố
Tư khiên kim dạ trường ưng trực
Vũ lănh hương hồn điếu thư khách
Thu phần qủy xướng Băo gia thi
Hận huyết thiên niên thổ trung bích
Dịch Nghĩa
Ngọn gió thổi qua cây ngô đồng làm ḷng người kinh sợ, tráng sĩ thêm khổ tâm
Bên ngọn đèn hiu hắt, tiếng con vạc sành (1) gợi nhớ đến áo mùa lạnh
Có ai xem thấy một cuốn sách, chẳng có người đọc để cho mối mọt ăn nát thành bột (2)
Đêm nay, ( khi nghĩ đến cảnh đó ) mà thêm đau ḷng
Mưa lạnh, mảnh hồn thơm viếng điếu người làm ra sách
Trên nấm mộ mùa thu, tiếng qủy ngâm nga thơ Bảo gia (3)
Máu hận ngàn năm thấm vào đất và biến thành ngọc đá
---
(1) Lạc vĩ: tức sa kê là tên con vạc sành. Tiếng kêu của nó giống như tiếng kéo tơ nên thường gợi lên cảnh may áo vào mùa thu. Lại thuyết cho rằng lạc vĩ là con dế, mỗi khi nó kêu là trời lạnh, người ta bắt đầu may áo mùa thu.
(2) Người xưa khi chưa có giấy, thường dùng tre xanh để thay. Thanh giản dùng để chỉ chung cho sách vở.
(3) Không rơ Bảo gia là ai. Có thể là Bảo Chiếu ( ?-466 ) một nhà thơ lớn thời Nam Bắc triều. Do xuất thân hèn kém lại sống trong thời đại môn phiệt đang thịnh, nên dù có tài, ông vẫn chịu mọi sự rẻ rúng và đả kích. Thơ ông đầy những lời phẫn uất của kẻ có tài mà không gặp thời.
Dịch Thơ
Thu đến
Gió thổi ngô đồng ḷng run sợ
Đèn mờ, vạc sành gợi lạnh giá
Ai thấy tre xanh, cuốn sách xưa
Chẳng đuổi mọt ăn nát lả tả
Đêm nay nghĩ đến ḷng quặn đau
Mưa lạnh hồn thơm điếu khách lạ
Qủy đọc thơ trên nấm mộ thu
Máu hận ngàn năm thành ngọc đá.
Dịch thơ ( Huỳnh Ngọc Chiến )
*************************************************88
TƯƠNG PHI
Trường bạn Tần Nga cái Tương thủy
Man nương ngâm lộng măn hàn không
Cửu sơn tĩnh lục lệ hoa hồng
Ly loan biệt phượng yên Ngô trung
Vu vân Thục vũ dao tương thông
U sầu thu khí thượng thanh phong
Lương dạ ba gian ngâm cổ long.
Dịch Nghĩa
Trúc trắng già ngàn năm mà không chết
Từ bao lâu đă làm bạn với Tần Nga, rũ bóng che ḍng sông Tương
Những cô gái xứ man di hát múa khắp nơi dưới bầu trời lạnh
Núi Cửu Nghi yên tĩnh xanh thẳm, những đóa hoa rơi như giọt lệ hồng
Rời chim loan xa chim phượng, mây khói bốc lên ở Thương Ngô
Mây non Vu, mưa xứ Thục tuy xa cách nhưng vẫn tương thông
Khí thu u buồn bốc lên trên cây phong xanh
Trong đêm mát, nghe tiếng rồng xưa ngâm giữa những làn sóng.
Dịch Thơ
Tương phi
Trúc xinh sống măi ngàn năm
Soi ḍng Tương, bạn Nữ Anh Nga Hoàng
Man nương buồn khóc núi hoang
Cửu Nghi cây cỏ giọt hồng lệ rơi
Tương Ngô cách biệt đôi nơi
Mây Vu mưa Thục cuối trời cảm thông
Hơi thu buồn tỏa cành phong
Đêm khuya trên sóng, rồng ngâm gợi sầu.
Bản dịch của Huỳnh Ngọc Chiế
************************************************88
Lư Bằng không hầu dẫn
Ngô ti Thục đồng trường cao thu
Không sơn ngưng vân đồi bất lưu
Giang Nga đề trúc, Tố Nữ sầu
Lư Bằng Trung Quốc đàn không hầu
Côn Sơn ngọc toái, phượng hoàng khiếu
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu
Nhị thập môn tiền ngưng lănh quang
Nhị thập tam ti động Tử Hoàng
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ
Thạch phá kinh thiên đậu thu vũ
Mộng nhập thần sơn giáo Thần Ẩu
Lăo ngư khiêu ba sấu giao vũ
NGô Chất bất miên ỷ quải thọ
Lộ cước tà phi thấp hàn thố
Dịch Thơ
Nghe Lư Bằng đánh đàn không hầu
Gỗ đàn nước Thục dây Ngô
Trời thu mây cũng lững lờ ngừng trôi
Giang Nga khóc trúc ngậm ngùi
Cung không hầu vọng bồi hồi thở than
Nghe như tiếng hót phượng hoàng
Côn Sơn ngọc vỡ trên ngàn xa khơi
Phù dung khóc hạt sương rơi
C̣n nghe e ấp nụ cười hương lan
Sáng nhoà gác cổng Trường An
Tiếng tơ vang động Tử Hoàng trên cao
Nữ Oa luyện đá nơi nào
Trời tan đá vỡ lắng vào mưa thu
Mộng non thần, tiếng nhạc ru
Cá già lướt sóng lượn lờ giao long
Tựa cây quế, thức mơ ṃng
Sương gieo gót lạnh ướt vầng trăng đêm
Huỳnh Ngọc Chiến dịch
***************************************************8
Thần huyền khúc
Tây sơn nhật mộ đông sơn hôn
Đoàn phong xuy mă, mă đạp vân
Hoạ huyền tố quản thanh thiển phồn
Hoa quần tuư sái bộ trung trần
Quế diệp loát phong quế truỵ tử
Thanh tinh khốc huyết hàn hồ tử
Cổ bích thái cù kim thiếp vĩ
Vũ công kỵ nhập thu đàm thuỷ
Bách niên lăo kiêu thành mộc mị
Tiếu thanh bích hoả sào trung khỉ
Dịch Nghĩa:
Thần huyền khúc
Mặt trời lặn núi tây, núi đông trời u tối
Ngọn gió lốc cuốn thổi vào ngựa (của chư thần đang cưỡi) khiến ngựa đạp mây
Dây đàn đẹp, ống sáo trắng với những âm thanh cạn mà phức tạp (dùng để đón chư thần)
Quần hoa bước đi kêu sột soạt trong lớp bụi mùa thu
(Khi chư thần giáng thế th́ gió lốc nổi lên) lá cây quế chải tóc gió làm trái quế rụng xuống
(Chư thần trừ tà) khiến cho con tinh tinh xanh khóc, nước mắt biến thành máu, thương cho con hồ ly đă chết trong giá lạnh
Con cù long trên bức vách đẹp đẽ cổ kính với cái đuôi như tấm thiếp bằng vàng
Được người thợ làm mưa cưỡi đi vào đầm nước mùa thu
Con chim cú vọ sống lâu trăm tuổi biến thành quỷ mị trên cây
Tiếng cười của nó vang lên trong tổ giữa ánh lửa biếc
Dịch Thơ
Trời lặn non nam đă tối rồi
Gió lốc thổi ngựa đạp mây trôi
Đàn xinh sáo trắng nghe khơi vơi
Quần hoa đi giữa bụi thu rơi
Lá quế trải gió, quế rơi trái
Tinh xanh khóc hồ, lệ máu chảy
Cù long đuôi vàng trên vách xưa
Thợ mưa cỡi vào đầm thu thuỷ
Cú vọ trăm năm thành mộc mị
Lửa xanh vọng lên tiếng cười quỷ
Huỳnh Ngọc Chiến
*****************************************
Nam viên kỳ I
Hoa chi thảo mạn nhăn trung khai
Tiểu bạch trường hồng Việt nữ tai
Khả liên nhật mộ yên hương lạc
Giá dữ xuân phong bất dụng mai
Dịch Thơ
Vườn phía nam
Cỏ mượt, trên cành hoa trổ bông
Tựa cô gái Việt má hay hồng
Thương thay chiều tối hương rơi rụng
Không mối manh mà lấy gió đông.
Khuyết Danh
***************************
Nam viên kỳ VI
Tầm chương trích cú lăo điêu trùng
Hiểu nguyệt đương liêm quải ngọc cung
Bất kiến niên niên Liêu hải thượng
Văn chương hà xứ khốc thu phong
Dịch Nghĩa
Tuổi già thân tàn đọc sách t́m lấy từng chương từng câu
Gặp lúc trăng buổi sớm tựa như chiếc cung ngọc treo trước rèm
Chẳng thấy năm năm trên biển Liêu
Văn chương chốn nào khóc cùng gió thu
Dịch Thơ:
Nam viên kỳ VI
Nhai văn nhá chữ nghề hèn
Trong vành trăng sớm ngỡ rèm treo cung
Năm năm một dải Liêu Đông
Văn chương nào chốn khóc cùng gió thu?
***********************************88
Tàn ti khúc
Thuỳ dương diệp lăo oanh bội nhi
Tàn ti dục đoạn hoàng phong quy
Lục mấn niên thiếu kim thoa khách
Phiêu phấn hồ trung trầm hổ phách
Hoa đài dục mộ xuân quy khứ
Lạc hoa khởi tác hồi phong vũ
Du lai tương thôi bất tri số
Thẩm lang thanh tiền hiệp thành lộ
Dịch Nghĩa:
Khúc hát tơ tàn
Trên cây thuỳ dương, trong đám lá vàng, con chim oanh đang mớm mồi cho con.
Những sợi tơ tàn như muốn đứt, khi những con ong vàng bay về tổ
Chúng ta là trai niên thiếu và gái đương th́
Rượu màu hổ phách đang ch́m trong b́nh rượu trắng xanh
Trên đài hoa đă sắp xế chiều, mùa xuân sắp hết
Những cánh hoa rụng bị gió cuốn bay như đang múa
Trái cây du rơi vô số
Như những đồng tiền Thẩm lang xanh rơi trên đường đi ngoài kinh thành
Dịch Thơ:
Thuỳ dương lá đă úa vàng
Tơ tàn muốn đứt ong vàng lượn phi
Trai niên thiếu, gái đương th́
Rượu hổ phách lắng vào ly hương nồng
Huống ǵ xuân đă chiều buông
Hoa rơi gió nổi trận cuồng loạn bay
Lao xao bao trái du lay
Ngoài đường thành hẹp nghe đầy trái rơi
Huỳnh Ngọc Chiến
********************************************88
Tàn ti khúc
Thuỳ dương diệp lăo oanh bội nhi
Tàn ti dục đoạn hoàng phong quy
Lục mấn niên thiếu kim thoa khách
Phiêu phấn hồ trung trầm hổ phách
Hoa đài dục mộ xuân quy khứ
Lạc hoa khởi tác hồi phong vũ
Du lai tương thôi bất tri số
Thẩm lang thanh tiền hiệp thành lộ
Dịch Nghĩa:
Khúc hát tơ tàn
Trên cây thuỳ dương, trong đám lá vàng, con chim oanh đang mớm mồi cho con.
Những sợi tơ tàn như muốn đứt, khi những con ong vàng bay về tổ
Chúng ta là trai niên thiếu và gái đương th́
Rượu màu hổ phách đang ch́m trong b́nh rượu trắng xanh
Trên đài hoa đă sắp xế chiều, mùa xuân sắp hết
Những cánh hoa rụng bị gió cuốn bay như đang múa
Trái cây du rơi vô số
Như những đồng tiền Thẩm lang xanh rơi trên đường đi ngoài kinh thành
Dịch Thơ:
Thuỳ dương lá đă úa vàng
Tơ tàn muốn đứt ong vàng lượn phi
Trai niên thiếu, gái đương th́
Rượu hổ phách lắng vào ly hương nồng
Huống ǵ xuân đă chiều buông
Hoa rơi gió nổi trận cuồng loạn bay
Lao xao bao trái du lay
Ngoài đường thành hẹp nghe đầy trái rơi
Huỳnh Ngọc Chiến
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|