goldsnow142
member
ID 39911
04/14/2008
|
LUẬT LÀM THƠ ( Sưu tầm )
Xin sưu tầm một số hướng dẫn Luật làm thơ để mọi người tham khảo .
I.Bài viết của UTTHUONG .
Thơ Lục Bát
Lục bát là thể thơ thông dụng nhất, v́ cách gieo vần tương đối đơn giản.
Lục = sáu chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng
Bát = tám chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng, 8 bằng
x B x T x B (v1)
x B x T x B (v1) x B (v2)
x B x T x B (v2)
x B x T x B (v2) x B (v3)
Thơ Thất Ngôn (hay c̣n gọi Tứ Tuyệt)
Thất ngôn đơn giản là thể thơ gồm bốn câu mỗi đoạn, và mỗi câu được mang bảy chữ, được sắp theo luật như sau:
Bốn câu được chia thành hai cặp:
Một cặp mang thanh x T x B x T x (trắc, bằng, trắc)
Một cặp mang thanh x B x T x B x (bằng, trắc, bằng)
Hai cặp này có thể đặt xen kẽ, hoặc đối xứng tùy ư, miễn sao nghe êm tai là được. Trong từng câu, những chữ mang thanh trắc bằng bắt buộc phải là các chữ 2, 4, và 6 của mỗi câu. Như vậy chữ thứ 2 và thứ 6 luôn mang cùng một thanh c̣n chữ thứ 4 th́ ngược lại theo đúng luật thơ.
Thơ Bát Ngôn (thơ 8 chữ)
Bát Ngôn là thể thơ tám chữ, tức là mỗi ḍng trong đoạn thơ sẽ có tám chữ. Làm thơ Bát ngôn dễ dàng hơn những thể thơ khác rất nhiều v́ không bị luật thơ g̣ bó như những thể loại khác:
Câu đầu tiên của bài thơ th́ có thể tự do mà làm, v́ không phải theo khuôn khổ nào hết.
Câu hai và ba th́ chữ cuối của câu hai và câu ba phải theo cùng vần là trắc trắc, hoặc bằng bằng, cứ hai cặp trắc lại đến hai cặp bằng cho đến hết bài thơ.
Câu cuối cùng cũng tương tự câu đầu. không cần phải vần với câu nào hết, nhưng nếu chữ cuối của câu cuối có thể vần với chữ cuối câu đầu th́ sẽ hay hơn.
V́ Bát ngôn không có quá g̣ bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn, chỉ cần uốn nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.
Thơ Tứ Ngôn (thơ 4 chữ)
Thơ tứ ngôn là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi v́ luật bằng trắc chỉ được áp dụng cho chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu mà thôi.
Nếu chữ thứ 2 là bằng th́ chữ thứ 4 là trắc và ngược lại nếu chữ thứ 2 là trắc th́ chữ thư 4 là bằng.
Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần tiếp, và cách gieo vần tréo. Tuy nhiên vẫn c̣n một cách gieo vần nữa, cách này ít ai dùng đến, là cách gieo vần ba tiếng.
Cách gieo vần tiếp
x B x T (v1)
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x T x B (v2)
Cách gieo vần tréo
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x B x T (v1)
x T x B (v2)
Cách gieo vần ba tiếng
x B x T (v1)
x T x B (v1)
x B x T (tự do)
x T x B (v2)
Thơ Ngũ Ngôn (thơ 5 chữ)
Cũng giống như thơ 4 chữ, nếu chữ thứ 2 trong câu là bằng th́ chữ thứ 4 là trắc và ngược lại. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo.
Cách gieo vần ôm
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v2)
x T x B x (v1)
Cách gieo vần tréo
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
Thơ Đường
Thơ Đường được bắt đầu từ bên Trung Hoa, thời nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng v́ lẽ đó nên các quan trong triều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thơ nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đă phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là thơ Đường.
Thơ Đường c̣n được gọi là "Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú" tạm dịch là Đường thơ bảy chữ tám câu. Tám câu này được phân ra thành bốn cặp (cặp là hai câu giống nhau theo luật bằng trắc).
cặp 1: gồm câu một và câu tám
cặp 2: gồm câu hai và câu ba
cặp 3: gồm câu bốn và câu năm
cặp 4: gồm câu sáu và câu bảy
Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu; đặc biệt, những chữ 7 (chữ cuối của mỗi câu) cũng phải theo luật bằng-trắc (b=bằng, t=trắc).
Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) th́ bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)
Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) th́ bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)
Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi v́ hai câu này được gọi là hai câu THỰC và hai câu năm và câu sáu là hai câu LUẬN.... hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, danh từ (noun) đối danh từ, động từ (verb) đối động từ, tính từ (adjective) đối tính từ, quan trọng hơn cả là hai cặp câu này phải Ư đối Ư.
Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể HỌA THƠ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những mang VẦN của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên (thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ư thơ của ḿnh.
Note:
Chủ ư để viết nên 1 bài thơ là để diễn tả cảm xúc, dùng từ ngữ mà diễn đạt tâm ư của người làm thơ, nhiều khi quá g̣ bó trong luật thơ có thể sẽ mất đi cái hứng làm thơ, v́ vậy, nếu bài thơ khi đọc lên nghe êm dịu, xuôi tai, diễn tả được ư tứ và cảm xúc của tác giả th́ không cần theo đúng luật thơ cũng có thể là 1 bài thơ hay phải không các bạn.
II.Bài viết của HOAMOCLAN
CÁC THỂ THƠ
Các thể loại thơ thông thường: Thể Lục Bát, Biến Thể Lục Bát, Thể Song Thất Lục Bát, Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Cũ), Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Mới), và Thể Thơ Tám Chữ.
Thể Lục Bát
Thơ Lục Bát, c̣n được gọi là thơ "Sáu Tám", v́ câu đi trước có 6 chữ, c̣n câu đi sau có 8 chữ. Cứ thế mà lập lại hoài cho tới khi nào tác giả muốn ngưng bài thơ. Thông thường, bài thơ Lục Bát dừng lại ở câu 8.
1. Cách Gieo Vần-Chữ cuối của câu trên (tức câu 6) phải vần với chữ thứ sáu của câu dưới (tức câu 8). Cứ mỗi hai câu th́ đổi vần, và bao giờ cũng gieo vần bằng (c̣n gọi là bằng hoặc b́nh, tức có dấu huyền hoặc không dấu). Kư hiệu của bằng là B. Đặc biệt chữ thứ tư của câu 6 và câu 8 và chữ thứ bảy của câu 8 luôn luôn được gieo ở vần trắc hay trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngă, hoặc dấu nặng). Kư hiệu của trắc là T. Chữ thứ sáu của câu 8 được gọi là yêu vận (vần lưng chừng câu), và chữ thứ 8 của câu tám được gọi là cước vận (vần cuối câu). Vận hay vần là tiếng đồng thanh với nhau. Gieo vần th́ phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: ḥn, non, ṃn, con... Nếu gieo vần mưa với mây th́ bị lạc vận. C̣n nếu gieo vần không hiệp với nhau th́ gọi là cưỡng vận. Ví dụ: tin đi với tiên.
2. Luật Bằng Trắc-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc, V là Vần.
Câu 6: B B T T B B
Câu 8: B B T T B B T B
Ví dụ:
Câu 6: Trăm năm | trong cơi | người ta
Câu 8: Chữ tài | chữ mệnh | khéo là | ghét nhau
Câu 6: Trải qua | một cuộc | bể dâu
Câu 8: Những điều | trông thấy | mà đau | đớn ḷng
(Kiều)
Ghi chú: Chữ là và đau là yêu vận (tức là vần đặt ở trong câu); chữ nhau và ḷng là cước vận (tức là vần đặt ở cuối câu). Chữ thứ 6 của câu 6 (ta) hiệp vận (V) với chữ thứ 6 của câu 8 (là), chữ thứ 8 (nhau) của câu 8 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (dâu) của câu 6, chữ thứ 6 (dâu) của câu 6 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (đau) của câu 8.
Biệt lệ-Tuy luật bằng trắc đă qui định như ở trên, nhưng những chữ thứ 1, thứ 3 và thứ 5 nếu không theo đúng luật th́ cũng không sao. Cái biệt lệ ấy được gọi là "nhất, tam, ngũ bất luận", có nghĩa là chữ thứ 1, chữ thứ 3 và chữ thứ 5 không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật. C̣n các chữ thứ 2, chữ thứ 4, và chữ thứ 6 bắt buộc phải theo đúng luật (phân minh), do câu "nh́, tứ, lục phân minh".
Ví dụ:
Trăm năm trong cơi người ta (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 3 (trong) đáng lẽ thuộc vần Trắc, nhưng lại đổi thành vần Bằng).
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 1 (Chữ) và thứ 5 (khéo) đáng lẽ thuộc vần Bằng, nhưng lại đổi thành vần Trắc).
3. Thanh-Thanh gồm có Trầm B́nh Thanh và Phù B́nh Thanh. Trầm B́nh Thanh là những tiếng hay chữ có dấu huyền. Ví dụ: là, ḷng, pḥng... Phù B́nh Thanh là những tiếng hay chữ không có dấu. Ví dụ: nhau, đau, mau... Trong câu 8, hai chữ thứ 6 và thứ 8 luôn luôn ở vần Bằng, nhưng không được có cùng một thanh. Có như thế, âm điệu mới êm ái và dễ nghe. Nếu chữ thứ 6 thuộc Phù B́nh Thanh th́ chữ thứ 8 phải thuộc Trầm B́nh Thanh, và ngược lại.
Ví dụ:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Ghi chú: là thuộc Trầm B́nh Thanh, nhau thuộc Phù B́nh Thanh).
Những điều trông thấy mà đau đớn ḷng.
(Ghi chú: đau thuộc Phù B́nh Thanh, ḷng thuộc Trầm B́nh Thanh).
4. Phá Luật-Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp người làm thơ thích phá luật ở chữ thứ hai câu 6, thay v́ vần bằng th́ lại đổi ra vần trắc; c̣n chữ thứ tư th́ có khi đổi thành vần bằng thay v́ vần trắc như thường lệ. Câu 6 cũng được ngắt ra làm hai vế.
Ví dụ: Mai cốt cách | tuyết tinh thần (B T T T B
Mỗi người | một vẻ | mười phân | vẹn mười (T B T T B B T
(Kiều)
Đau đớn thay | phận đàn bà (B T B T B
(Kiều)
Khi tựa gối | khi cúi đầu (B T T B T
(Kiều)
Đồ tế nhuyễn | của riêng tây (B T T T B
Sạch sành sanh vét | cho đầy túi tham (T B B T B B T
(Kiều)
Biến Thể Lục Bát
Biến Thể Lục Bát là thể văn biến đổi ở cách gieo vần.
Ví dụ:
Câu 6: Vừa ra đến chợ một khi
Câu 8: Thấy rồng che phủ tứ vi một người
Câu 6: Nguyên nàng số lư nghề ṇi
Câu 8: Dưới đất trên trời thuộc hết mọi phương (T T B B T T B
(Truyện Lư Công )
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (trời) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (ṇi) của câu 6.
Hoặc:
Câu 6: Khoan khoan chân bước bên đường
Câu 8: Thấy chàng họ Lư ngồi đương ăn mày
Câu 6: Đầu thời đội nón cỏ may
Câu 8: Mặt vơ ḿnh gầy cầm sách giờ lâu (T T B B B T B
(Truyện Lư Công)
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (gầy) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (may) của câu 6.
Trên đây là một số niêm luật căn bản của thơ Lục Bát. Làm thơ Lục Bát tuy dễ mà khó. Cái khó là ở cách gieo vần, làm sao đừng cho bị lạc vận hoặc cưỡng vận. Một bài thơ hay mà bị lạc vận hoặc cưỡng vận th́ sẽ làm hỏng cả bài thơ, cũng giống như một con sâu làm hỏng cả nồi canh ngon vậy!
Người viết sẽ nêu một vài ví dụ điển h́nh để bạn thấy những khuyết điểm nho nhỏ mà người làm thơ không để ư tới, có thể v́ chưa nắm vững niêm luật hoặc cũng có thể v́ coi thường niêm luật. Sự không hiệp vận ấy gọi là cưỡng vận hay ép vận (tin đi với tiên) và lạc vận (mưa đi với mây).
(Ghi Chú: Về Vần hay Vận, xin xem một bài viết riêng về Thanh, Bằng Trắc và Vần của cùng tác giả sẽ cống hiến các bạn trong một dịp khác.)
Ví dụ:
Nhớ xuân lửa đạn rừng đồi
Nhớ đêm không ngủ cuối trời Việt Nam
Bây giờ mượn chút thời gian
Chia cho hiện tại để làm quà Xuân
Chú thích:
đồi đi với trời là Cưỡng vận (đồi với trời thuộc Vần Thông,1 chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Nam đi với gian là Lạc vận (Nam và gian không thuộc Vần Chính 2 và Vần Thông).
gian đi với làm là Lạc vận (gian và làm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Nhớ mi quầng biệt Quỳnh Côi
Nhớ hương bồ kết nhớ người mẹ quê
Chú thích:
Côi đi với người là Lạc vận (Côi và người không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Nhớ em phụng phịu: trời mưa
Giao thừa chẳng được vui đùa với nhau
Chú thích:
Mưa đi với đùa là Cưỡng vận (mưa và đùa thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Có người hôm ấy chải đầu
Vô t́nh tóc cứ bay vào vai ta
Chú thích:
đầu đi với vào là Lạc vận (đầu và vào không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Ly cà phê Mỹ nhạt hơn
Nhưng đầy chất đắng trong hồn tha hương
Chú thích:
hơn đi với hồn là Cưỡng vận (hơn và hồn thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Vẫn không gian ấy băo bùng
Hay mồ hôi tưới trên thung lũng cằn
Bây giờ ngồi giữa thế gian
So giây ướm thử mấy gam giao mùa
Chú thích:
cằn đi với gian là Lạc vận (cằn và gian không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
gian đi với gam là Lạc vận (gian và gam không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Gió thơm từ thuở hoàng hôn
Theo chân ánh sáng về ôm ngang trời
Chú thích:
hôn đi với ôm là Lạc vận (hôn và ôm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
Rừng Xuân hoa lá êm đềm
Có người thơ thẩn đi t́m phong lan
Chú thích:
đềm đi với t́m là Lạc vận (đềm và t́m không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
1 Vần Thông là những vần chỉ hợp nhau về thanh, c̣n âm th́ tương tự chớ không hợp hẳn.
2 Vần Chính là những vần mà cả thanh lẫn âm đều hợp nhau.
III.Bài viết của BANGTHANH
CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
(Thơ Đường Luật)
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Tổng cộng có 56 chữ.
Về cách phối âm, hay luật bằng trắc giữa các câu, ta chỉ nói các thanh Bằng-Trắc của các chữ đứng thứ 2-4-6 trong 1 câu (theo quy tắc Nhất-tam-ngũ bất luận, nhị-tứ-lục phân minh). Các tiếng 2-4-6 trong cùng 1 câu theo thứ tự luật bằng trắc có thể là B - T - B hay có thể là T - B - T.
Ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông B - T - B
Nuôi đủ năm con với một chồng T - B - T
Đôi khi trong câu đầu tiên của bài thơ cũng có thể làm theo thứ tự B - B - T, cũng có thể xem đó là luật phối thanh của câu T - B - T. Ví dụ:
Một đèo, một đèo, lại một đèo B - B - T
Về cách gieo vần trong thơ: Vần trong thơ là những tiếng đọc giống nhau hay những tiếng đọc gần giống nhau như cùng một vần, hay là vần gần giống nhau mhư sông-chồng, tà-hoa.... Các vần giống nhau trong thơ Đường luật mang thanh bằng, và được đặt ở cuối mỗi câu thơ. Có thể gieo vần vào các tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8, hay có thể là 2-4-6-8, và các vần phải vần với nhau rơ ràng,các tiếng cuối câu 3-5-7 c̣n lại phải mang thanh trắc, các cao nhân thời xưa thường hay gieo vần vào các tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Ví dụ:
Sóc phong suy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn, ḱnh khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà Bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Văn sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ cảnh ư nan thăng
(Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trăi)
Trong khi gieo vần thường các cao nhan cũng chú ư đối thanh trong thơ, thường có 2 cách đối thanh, đó là đối thanh huyền (H) và thanh ngang (N) trong các vần được gieo. Ở bài thơ ví dụ trên ta thấy lăng-Đằng-tằng-tằng-thăng theo thứ tự N-H-H-H-N. C̣n cách đối kách là xen kẽ thanh huyền và thanh ngang với nhau. Ví dụ như bài Qua đèo ngang của bà huyện Thanh Quan.
Phép đối trong thơ thất ngôn bát cú, là đối giữa các câu 3-4, 5-6. Các câu này đối lại nhau như các câu đối thời xưa. Rơ nhất là về các câu trong bài Qua đèo Ngang. Về bố cục th́ bài thơ được chia làm 4 mỗi phần có 2 câu:
Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ
Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề
Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề
Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề
IV.Bài viết của Ct.Ly
CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần th́ có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tṛn
Bảy nổi ba ch́m với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm ḷng son
Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất.
Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Cách này thường được Hồ Chí Minh sử dụng.
Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hải hồ
Có phải A Pḥng hay Cô Tô ?
Lá liễu dài như một nét mi
Cách này ít người sử dụng.
Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú.
I CÁCH LÀM THƠ NGŨ NGÔN
Thơ ngũ ngôn Đường luật cũng giống thơ thất ngôn Đường luật, hoàn toàn giống về niêm, về cách gieo vần, nhưng về bắng trắc th́ chỉ có 2 tiếng 2-4 nên theo thứ tự B-T hay là T-B, cứ như thế.
Ví dụ:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái b́nh nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san.
CÁCH NGẮT NHỊP THƠ
Đọc thơ phải đúng cách, đó là đọc đúng cách ngắt nhịp trong thơ để có thể cảm nhận hết được những ư tứ của tá gỉ trong thơ.
Cách ngắt nhịp thường gặp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp chắn: nhịp 2/2/3 hay c̣n gọi là nhịp 4-3.Ví dụ:
Một đèo / một đèo / lại một đèo
Nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ư tác giả.
Cách ngắt nhịp thơ ngũ ngôn theo nhịp 2/3.
Cách ngắt nhịp giúp ta hiểu rơ thơ hơn, cảm nhận hết ư tứ thơ.
Trên đây chỉ là những hiểu biết sơ sài của tôi về thơ Đường luật, post lên đây với mong muốn mọi nguời hăy sửa chữa những chỗ sai sót và bổ sung chỗ thiếu sót giúp cho chúng ta có thể hiểu thêm về một thể thơ nổi tiếng từ thời xa xưa đến nay. Mong các bạn giúp đỡ. Cảm ơn.
SONG THẤT LỤC BÁT
Song Thất Lục Bát . Có 4 câu : hai câu đầu 7 chữ, câu thứ ba 6 chữ, câu cuối 8 chữ
Luật Bằng trắc :
Câu/chữ 1 2 3 4 5 6 7 8
x x T x B x T1
1 Đông đă đến bao mùa ngao ngán
x x B x T1 x B2
2 Nhớ thương người bao tháng năm qua
x B x T x B2
3 Phổ cầm khúc tuyệt t́nh ca
x B x T x B2 x B
4 Nhỏ ḍng máu thắm xót xa đoạn trường
Luật :
x = Không qui luật ( Bằng hoặc Trắc cũng được )
B = Bằng ( là những chữ không dấu hoặc có dấu huyền )
T = Trắc ( là những chữ có dấu Sắc, Hỏi , Ngă , Nặng )T1= Vần Trắc ......T1 ( chữ thứ 7 ) của câu 1 phải vần với T1 ( chữ thứ 5 ) của câu 2 B2= Vần Bằng .....Chữ thứ 7 của câu 2 ..vần với chữ thứ 6 cuả câu 3 ......Chữ thứ 6 của câu 4 vần với chữ thứ 6 của câu 3
Vần
Chữ thứ 5 của câu 2 ( tháng ) vần với chữ thứ 7 của câu 1( ngán )
Chữ cuối cùng của câu 3 ( ca ) vần với chữ cuối của câu 2 ( qua )
Chữ thứ 6 của câu 4 ( xa ) vần với chữ cuối của câu 3 ( ca )
Note : Câu 3 và câu 4 làm theo thể thơ Lục Bát
Âm Khúc :
Chia từng câu thành những khúc nhỏ ..... trong Song Thất Lục Bát chia câu số 1 thành hai khúc và dùng lời thơ để nhấn mạnh từng khúc :
Câu 1 :
Đông đă đến / bao mùa ngao ngán
Câu 2 :
Nhớ thương người, / bao tháng năm qua
Câu 3 :
Phổ cầm / khúc tuyệt / t́nh ca
Câu 4 :
Nhỏ gịng / máu thắm / xót xa / đoạn trường
SONG THẤT LỤC BÁT
Cũng như LỤC BÁT, SONG THẤT LỤC BÁT thường được dùng trong những truyện thơ, và là thể loại thứ hai của hai thể thơ "chính tông" trong Việt văn.
Song Thất Lục Bát là loại thơ mở đầu bằng hai câu THẤT, rồi tiếp đến hai câu LỤC BÁT, tạo thành một KHỔ với ư từ trọn vẹn. (có nghĩa là trong 4 câu phải trọn vẹn một ư)
Câu THẤT trên (câu số 1), tiếng thứ 3 là chữ TRẮC, tiếng thứ 5 là chữ BẰNG, và tiếng thứ 7 là chữ TRẮc và VẦN.
Câu Thất dưới (câu số 2), tiếng thứ 3 là chữ BẰNG, tiếng thứ 5 là chữ TRẮC và VẦN với tiếng thứ 7 của câu trên, tiếng thứ 7 là chữ BẰNG và VẦN.
***Song Thất Lục Bát không giống như Thất Ngôn Luật theo lối
Hán văn, v́ luật BẰNG TRẮC được áp dụng trong Song Thất ở
chữ thứ 3, thứ 5, mà trong Thất Ngôn Luật th́ chữ thứ 3 và
chữ thứ 5 lại có thể theo lệ BẤT LUẬN.
Sau hai câu Thất là hai câu Lục Bát, theo luật của Lục Bát...chữ cuối của câu LỤC vần với chữ thứ 7 của câu THẤT thứ nh́):
ĐIỀU NGOẠI LỆ: Thông thường chữ thứ 3 của câu Thất(1) là chữ TRẮC, nhưng trong trường hợp không có đối ở câu dưới, th́ chữ thứ 3 của câu Thất trên có thể là chữ BẰNG. :
V.Bài viết của VIETDUONGNHAN
Những Dạng Thơ Đặc Biệt
1-Họa Vận
Một người làm một bài xướng lên,một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,c̣n ư nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :
Hỏi Ả Bán Chiếu
Xướng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay c̣n ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đă có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trăi
Họa :
Tôi ở Tây hồ bán chiế u gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay c̣n ?
Xuân thu tuổi mới trăng c̣n lẻ ,
Chồng c̣n chưa có,có chi con !
Nguyễn thị Lộ
2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau
Tám Mừng
Mừng đón xuân về,muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới ,mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống,như c̣n trẻ,
Mừng thấy đời tươi,chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân,đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nh́n xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng măi,
Mừng được trường xuân hưởng thái ḥa.
1986 Lạc Nam
3-Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
Chuyện Đời
Vất vất vơ vơ ,cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay c̣n chị chị anh anh đó ,
Mai đă ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không,lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại,chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Công Trứ ?
Nguyễn Thượng Hiền ?
4-Song điệp độc vận
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần
Xuân Và Thơ
Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ
T́nh Xuân là cả vạn lời Thơ
Đẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương,thi sĩ,đôi người ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân,lộng ư Thơ
Lạc Nam
5-Dĩ đề vi thủ
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ
Gửi Bạn
Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi,
Định đoạt hơn thua phó mặc trời .
Chúng mải công danh , ky cóp chạy,
Ta nh́n mây nước nhẹ nhàng trôi.
Theo quan,ngán bấy câu chè lá !
Về xă ,buồn thay cảnh thịt xôi.
Lê gậy theo trăng vào quán trọ,
Ninh trà,nạp thuốc ,chuốc nhau chơi.
Quả Ngôn
Chú thích
Lê Ninh (. - 1886) hiệu là Mệnh Khang người Hà Tĩnh .Hợp
với quân Phan đ́nh Phùng ở Hương Sỏn chống lại Pháp.
6-Dĩ đề vi vận
Lấy đầu đề làm vần
Không Chồng Trông Bông Lông
Xướng :
Bực ǵ bằng gái chực pḥng không
Tơ tưởng v́ chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Họa Vận :
Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều người c̣n có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh như bóng,
Cơi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp măi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.
Cổ Lai Hy
Quán Thơ Xóm Sâu Ḅ
7-Toán thi
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số
Bói Số
Ruột rối ḅng bong, một lá thuyền
Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên
Người đi ngh́n dặm c̣n thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có kêu thời cũng hăo
Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền
Vạn người , ai kẻ chung tâm sự
Hăy triệu giùm tôi chú đỗ quyên
8-Liên hoàn
Thể thơ có nhiều đoạn ,câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới
Thi Lấy Được
Anh Phán nhà ta biết cóc ǵ
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất th́ anh đỗ,nh́ anh trượt,
Chẳng đậu khoa này,khoa khác đi.
Chẳng đậu khoa này,khoa khác đi.
Nam nhi chi chí,há lo ǵ,
Một,hai,ba,bốn,năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi.
Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi.
Trượt thi,thi trượt,vẫn gan ĺ.
. . . .
Tú Mỡ
Lính Tập Vinh Qui
Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rước thật mừng ghê !
Ông già,bà lăo gồm hai cụ,
Vợ giảnh,con ngoan đủ mọi bề,(1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng ḿnh khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt,
Bộ cất tay lên,ngó cũng nghề .(2)
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cười tróm trém,húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề !(4)
Mở mặt Tiên Rồng ḍng Đại Việt,
Nổi danh hùng hổ cơi Âu tê(5)
Trong t́nh cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê !(6)
N.V.H
Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén như râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp :un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.
9-Liên hoàn thuận nghịch vận
Thể thơ như trên ,nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất
Xem Núi Non Bộ
Non nhân,nước trí,điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh ,vươn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ,vắt hai triền.
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục,
Cánh hạc trườn mây bổng cơi tiên.
Đối cảnh tâm tư dường nhẹ nhơm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lăo tiên,
Lă vọng buông câu vờn sóng nước,
Phật đài mở lối lượn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhă,
Sắc lộng hương nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo h́nh như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.
Lạc Nam
10-Ô thước kiều
Thể thơ liên hoàn như trên,nhưng lấy 2 từ cuối,hoặc nhắc lại 2,3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới
Chống Tôn Thọ Tường
Lung lay ḷng sắt đă mang nhơ,
Chẳng xét phận ḿnh khéo nói vơ.
Người trí mang lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài ḥa đă sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ.
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách người,chẳng trách ḿnh.
Đến thế c̣n khoe đàng đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Thân danh chẳng kể,thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thương kẻ đ̣ng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.
Phan Văn Trị ( 1830-1910)
11-Tập danh
a-Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
Mừng Ông Lăo Hàng Thịt Ăn Thượng Thọ.
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hăy c̣n tinh mắt
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2)chén Lư(3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai.(4)
Xưa nay vẫn giữ ḷng chân thực
chữ đức giả xương máu để đời.
Nguyễn Khuyến
Chú thích
1-Do câu " nhân sinh thất thập cổ lai hy " ,ngựi ta sinh ra sống được 70 tuổi,xưa nay rất hiếm có
2-Rót rượu mời người khác uống
3-Chén rượu của Lư Bạch ,nhà thơ uống rượu nổi tiếng
4-Lăo Lai,người nước Sở đời Xuân Thu,tuổi đă ngoài 70 c̣n
cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui
b-Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người
Học Tṛ
Dài lưng tốn vải lại ăn no,
Nghĩ ngán cho thân phận học tṛ.
Thù nước,thù vua, ngay mặt chịu,
Công sưu,công ích,cắm đầu lo !
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng,
C̣n ngậm lông mèo chả sợ ho !
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc,
Rung đùi,chỉ nghĩ " tám đùi " to !
Nh́ Mỹ
Chú thích
Ngậm lông mèo : ngậm bút chữ nho
Tám đùi :văn xưa gọi là " bát cổ "dịch là tám vế,vế đồng nghĩa với đùi.
12-Tính danh
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh Giống như Điển Thi,câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu.Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm v́ như thế các cụ mới chịu cho là có học,rộng kiến thức.
Lỗi Thề
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp ǵ câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say măi gái Tầm Dương(4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà ( mưa gió nẻo cầu sương.
Toại Khang
Chú thích
1: Kiều trầm ḿnh ở sông Tiền Đường
2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
3- Đường Minh Hoàng -Dương Quư Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành "
4-Bạch Cư Dị,văn hào đời Đường,đêm đậu thuyền ở sông Tầm
làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát
5-Chung Tử Kỳ -Bá Nha là 2 bạn tri âm.Bá Nha gảy đàn,Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ ǵ.Tử Kỳ chết,Bá Nha đập đàn đi,không gảy nữa.
6-Trương Quân Thụy-Thôi Oanh Oanh t́nh tự dưới mái Tây hiên
7-Chiêu Quân nhà Ha&N sang cống Hồ
8-Ngưu Lang-Chức nữ đùng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc
thành mưa ngâu trong tháng 7 Âm lịch
13-Sắc thái
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc
Chiều Nổi Mầu Thu
Trời thu bóng ác rực mầu vang,
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng.
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Cḥm mây mưa nhạt khói mờ lam.
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía,
Vườn vắng c̣n đây nở đóa vàng.
Nếu chẳng vương t́m hoa súng tím,
Th́ đâu được ngắm nguyệt da cam
Toại Khang
14-Thủ vĩ ngâm
Thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối giống nhau
Khoe Lười
Anh em chớ bảo ta lười,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hăy c̣n chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt c̣n ngâm vịnh,
Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lười .
Tú Mỡ
Đèn Kéo Quân
Lúng túng trong ṿng mấy đứa đen,
Nhờ khi đỏ lửa mới hay hèn.
Nghênh ngang vơng giá phô đồ giấy,
Đủng đỉnh dù che nép bóng đèn.
Thằng trước thằng sau liền gót chạy,
Anh trên anh dưới vểnh râu lên.
Này ai say tỉnh nh́n xem thử,
Lúng túng trong ṿng mấy đứa đen .
Khuyết Danh
15-Triệt hạ
Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa,khiến người đọc phải nghĩ ra
Gái Hồng Nhan
Thấy gái hồng nha bỗng chốc mà . . .
Hơi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
H́nh dung yểu điệu in như thể . . .
Diện mạo phương phi ngó tưởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng người ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ước ǵ ta được mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .
Nguyễn Quư Tân
16-Yết hậu
Các câu trên đủ từ cả,riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ
Rượu Say Nhè
Sống ở nhân gian,đánh chén cay,
Trăm năm ngày thác ,gi" be đầy.
Diêm vương phán hỏi " Ai đó " ?
Say ! "
Sống ở nhân gian đánh chén khè ,
Trăm năm ngày thác,gi" đầy be.
Diêm vương phán hỏi " Ai đó " ?
Nhè ! "
Phạm Thái biệt hiệu Chiêu Ly
17-Áp cú
Từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau
Sang Canh
Năm nảo năm nao cũng ước lành
Lành,c̣n mong hết ? đón sang canh
Canh trời thắc thỏm phương xin lộc
Lộc nước lăm le khách vít cành.
Cành lá đêm qua dù thiếu nụ
Nụ đào xuân hé đẹp hơn tranh,
Tranh đời mới lại màu hoa gấm
Gấm vóc sơn hà lộng sắc xanh.
Toại Khang
Chừa Rượu
Những lúc say sưa, cũng muốn chừa,
Muốn chừa, nhưng tỉnh lại hay ưa,
Hay ưa nên nỗi không chừa được,
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa.
Nguyễn Khuyến
18-Chơi chữ
Thể thơ chơi chữ rất phong phú và hứng thú .Chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu :
a-Chơi theo vần A B C . . .
Muốn Quy Thuyền
A Di Đà Phật muốn quy thuyền,
B bết ḷng tham hăy cứ nguyên.
C xích cho gần nơi cửa tịnh,
Đ đầu nguyện dứt mối trần duyên.
Thảo Am
Dở Dang
E không thoát khỏi xa niềm tục,
F gượng rồi ra cũng hăo huyền.
T tái trần duyên tu chẳng trọn,
Y thời cũng trả,bát không quyên .
Bùi Tiến
Quán Thơ Xóm Sâu Ḅ
b-Chơi theo các dấu : Huyền - Sắc - Nặng - Hỏi
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền,
Sắc không khôn rơ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết,
Hỏi mấy ai đà có thiện duyên .
Thảo Am
c-Các từ trong bài thơ đều dùng một phụ âm hay nguyên âm
Chuyện Cô Cháu
Cô chẳng cho con cả chén chè
Cô cho chút chút,chán cô chưa.
Chè c̣n,cô cất cho chua cả,
Con cũng chê,mà chó cũng chê
Bùi Tiến
Quán Thơ Xóm Sâu Ḅ
Chớ chớ,cháu cô chỉ chănh cḥe,
Cháo chè chi chiết chán chường chưa !
Chén chè cô cúng cho chùa cả,
Cầu cháu cùng cô chồng chẳng chê !
Mai Ninh
Quán Thơ Xóm Sâu Ḅ
d-Ư của các từ , cụm từ, câu thơ đều phải hiểu theo nghĩa bóng, điển . . .
Thể thơ chơi chữ này thú vị và bất ngờ nhất v́ có khi người đọc nghĩ ra những ư mà chính tác giả cũng không nghĩ ra.
Tắm Trong Tù
Vùng vẫy ḿnh trong bể nước đầy
Hết kỳ lại cọ,chẳng rời tay
Ông Tây cứ bảo ḿnh yêu nước,
Ừ,chẳng yêu sao lại thế này ?
Nhượng Tống
Chú thích : Lệ nhà tù,một tuần mới cho tắm một lần,nên mỗi khi tắm,phạm nhân vùng vẫy kỳ cọ trong bể nước cho bằng đă.
Ghẹo Sư nữ
Ôm tiu cắp mơ ngủ kho kho,
Gió thổi mùng thiền mát mẻ cô,
Cánh cửa từ bi gài lỏng khóa,
Nén hương tế độ đốt đầy ḷ.
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác ,
Chim suối nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn với chúng sinh ḷng muốn độ,
Đêm đêm thường niệm chữ nam vô !
Nguyễn Khuyến ?
Mai Thế Quư ?
19-Kỵ đề
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều không có từ nào chỉ đề tài
mà vẫn thể hiện đầy đủ yêu cầu của đề tài
Chưa sưu tầm ra bài mẫu
20-Bát điệp
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào 1 hoặc 2 từ giống nhau.
Gái Muộn Chồng
Ai giám thương đâu gái có chồng
Thương v́ một nỗi chực pḥng không.
Thương con quốc đực kêu mùa hạ
Thương cái bèo non giạt biển đông
Thương vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,
Thương cha mẹ nhện số long đong.
Cái thương quân tử thương là thế,
Có giám thương đâu gái muộn chồng.
Khuyết Danh
C̣n Chơi
Ai đă hay đâu tớ chán đời
Đời chưa chán tớ,tớ c̣n chơi.
Chơi cho thật chán,cho đời chán,
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi.
* Nói thế,can ǵ tớ đă thôi ?
Đời đương có tớ,tớ c̣n chơi.
Người ta chơi đă già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời.
Tản Đà
Chú thích
* Trong câu 5 Tản Đà không có dùng từ đời
Nếu ta thay từ " can ǵ " bằng " đời nào " câu 5 thành :
Nói thế ,đời nào tớ đă thôi
Th́ bài thơ thuộc thể Bát điệp.
21-Liên ngâm
Thể thơ trong đó 2 hoặc nhiều người làm chung một bài thơ lần lượt nhau mỗi người 1 hoặc 2 câu
Cảnh Tây Hồ
Bài này do bà Liễu Hạnh cùng ông Phùng Khắc Khoan ,1 ông họ Lư,1 ông họ Ngô chơi thuyền ở Hồ Tây liên ngâm :
Liễu
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời
Lư
Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
Phùng
Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi.
Che mưa nhà lợp vài gian cỏ
Ngô
Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng
. . . . . . . . . . . .
Phùng
Đông hết thành xuân chửa thấy mai.
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ
Ngô
Sóng ḷng trần tục dạ đầy vơi.
Xe săn Vị Thủy tha hồ hỏi
Lư
Thuyền tới Đào nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm dục thanh ḷng Phật đó
Liễu
Trăng tṛn soi bóng một tiên thôi.
( Nguyên văn chữ Hán Truyện Liễu Chúa-Phan Kế Bính dịch nôm
trong Việt Hán văn khảo )
22-Hạn Vận
Người ra đề cho vần nào ta phải dùng vần ấy .
Thể thơ này khác với thể Họa Vận v́ không có bài xướng để dựa theo mà họa ,hơn thế nữa,ta phải :
* Tả ư thơ theo đầu đề
* Dùng 5 vần hạn định ( trong 8 câu )
Đầu Đề :
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không,ai dám dở mùng chun vô ?
5 Vần hạn định : xô,cô,vô,ô,rô.
( Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức )
Bài thơ sát với đầu đề ,hạ đúng 5 vần hạn định ,được giải nhất mà tác giả lại là một nhà sư chân tu ! :
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận t́nh truớc hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô ?
Mảng sướng kể ǵ thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần,thước xưa c̣n lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô !
23-Phú Đắc
Giải thích và phát triển ư của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ ,nhưng nội dung phải phù hợp với sự việc đó.
Già C̣n Muốn Lấy Chồng
Phú Đắc :
Bà già đă bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng
Đă trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
chữ nhất nhi chung đành đă vậy (1)
Câu tam bất hiếu nữa làm sao (2)
May mà lấy được ông chồng trẻ
Họa có sinh ra được chút nào ?
Nguyễn Khuyến
Chú thích
1-Nhất nhi chung : chỉ có một chồng cho đến trọn đời.
2-Tam bất hiếu :Theo thuyết Khổng Mạnh có câu " Băt hiếu h"u
tam ,vô hậu vĩ đại " Nghĩa là tội bất hiếu có 3 điều,không có
con trai nối dơi là tội to nhất .
Thách Vần
Phú Đắc :
Tối um um,trống điểm thùm,
Dáng lum khum,có lẽ hùm !
Quán tùm hum !
Giời hôm như mực cỏ xanh um,
Kẽm trống đâu đây bước đánh thùm,
Ven núi chẳng nề cao với thấp,
Qua cầu đếch biết thẳng hay khum.
Đường mây,ngọn gió,đôi đàn vạc,
Móng đá chân sim,một dấu hùm.
Sực thức đêm khuya thương kẻ lạnh,
Màn,chăn,đệm ấm hủm hùm hum.
Lê Lượng Thể
Biệt hiệu Thảo Trang
24-Láy Thơ
Thể thơ trong đó hoặc ở đầu câu,ở giữa câu hay ở cuối câu đều có từ láy-Láy có 3 loại :
a-Láy từ : Từ đùng trước được láy lại toàn bộ ở từ sau : ngời ngời-xinh xinh-ngà ngà-ngoan ngoăn . . .
b-Láy âm :Bộ phận phụ âm đàu của từ trước được láy lại ởbộ phận phụ âm của từ sau : khó khăn-đỡ đần . . .
c-Láy vần : Bộ phận vần của từ trước được láy lại ở bộ phận vần của từ sau : bồn chồn-lẩm cẩm-cheo leo . . .
d-Láy có 3 thể :
* Láy đôi : canh cánh-tà tà -lăm le . . .
Láy âm đôi
Quan Khánh
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo,quán cheo leo
Lợp lều quán cỏ tranh xơ xác
Xỏ kẽ kèo tre đót khẳng khiu.
Ba chạc cạy xanh h́nh uốn éo
Một ḍng nước biết cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo lắng
Ḱa cái diều nó lộn lèo !
Hồ Xuân Hương
* Láy ba : Sạch sành sanh-dửng dừng dưng - sát sàn sạt . . .
Láy vần ba - Vĩ Tam Thanh
Ngẫu Hứng
Tiếng gà bên gối tẻ tè te,
Bóng ác trông lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lóe ḷe loe.
Chim t́nh bè lứa kia ḱa kịa,
Ong, nhĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tị,
Ngủ trưa chửa dậy khỏe kḥe khoe.
Vô Danh
* Láy tư : Trùng trùng điệp điệp-lúng ta lúng túng-hớt hơ hớt hải-áo áo quần quần . . .
Hạ Long Tức Cảnh
Trùng trùng điệp điệp núi chon von,
Ảo ảo mơ mơ thế trận hồn ,
Lớp lớp hàng hàng ḥn Bái Tử,
Non non nước nước một ḷng son.
Tùng Linh
Quán Thơ Xóm Sâu Ḅ
25-Lái Thơ
Thể thơ có những cụm từ đôi được lái thành cụm từ đôi khác ( hoặc cụm từ ba ,nhưng rất ít ),như trong câu :
Con cá đối nằm trong cối đá
Hoặc trong cảnh Trạng Quỳnh ngồi bờ ao chơi đá bèo làm cho bà Quận Chúa phải đỏ mặt.
Muốn Quy Thuyền
Cầu đạo cần chi phải cạo đầu ,
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu .
Na bường bát tới nương bà văi,
Dầu săi không tu cũng giải sầu .
Thảo Am
Nhắn Bạn
Nhắc bạn những thương t́nh nhạn bắc,
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông.
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm măi,
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người.
Thảo Am
26-Cô nhạn xuất quần
Thể thơ trong đó vần câu đầu làm khác hẳn ,không giống mấy vần dưới
Tiến Sĩ Giấy :
Khéo chú hoa man khéo vẽ tṛ ,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu ..
Mày râu vẻ mặt vang trong nước ,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu ?
Bán tiếng , mua danh thây lũ tre ?
Bản vàng , bia đá vẫn ngh́n thu .
Hỏi ai muốn ước cho con cháu ?
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu .
Nguyễn Khuyến
27-Cô nhạn nhập quần
Thể thơ trong đó mấy vần trên đi với nhau ,chỉ có vần dưới
làm khác hẳn đi
Cái Bùng Binh *
Chỉ biết tiền thôi có biết ǵ ,
Xác to mà bụng tỉ t́ ti .
Chành bành ra rứa đeo ăn măi ,
Đút nhét vô hoài chẳng nói chi .
Làm tướng đời mô c̣n tiếng lại , **
Để quân trẻ nhỏ cứ thu đi . ***
Ngày đêm lúc lắc coi chừng đă ,
Chừng đă đầy thời phải đập nghe !
Khuyết Danh
* Bùng binh là một thứ b́nh làm bằng đất sét , trẻ con trong Nam thường dùng để bỏ dành tiền , như kiểu lợn ngoài Bắc .
** Thành ngữ gọi : đại tướng bùng binh .
*** Trẻ con có bùng binh thường thu giấu kín đáo
28-Liên Châu
Thể thơ tràng thiên dùng nguyên một vần mà câu nào cũng có vần
29-Vấn nghi
Câu thơ nào cũng theo thể hỏi,nên sau mỗi câu đều đặt được dấu hỏi cả.
Vấn Nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hăy c̣n ?
Cớ sao khi khuyết lại khi tṛn ?
H"i con Ngọc-thỏ đà bao tuổi ?
Chớ chị Hằng-nga đă mấy con ?
DĐêm thẳm cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh c̣n thẹn với vừng son ?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có t́nh riêng với nước non ?
Vô Danh
30-Thuận nghịch độc
( hồi văn )
Thể thơ khi đọc xuôi là 1 bài thơ,mà đọc ngược cũng là 1 bài thơ .Thể thơ này đ̣i hỏi công phu ghép từ thật khéo và phải làm theo đúng luật bằng trắc để có thể đọc xuôi ,đọc ngược đều có nghĩa ,câu thơ chải chuốt không khổ đọc
Cảnh Tây Hồ
Đọc xuôi
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây lẫn nước xanh màu tỏ ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu
Cây la tán rợp từng cao thấp,
Sóng gợn cầm tâu nhịp nhỏ to.
Bày khéo thú vui non nước đủ,
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so !
Khuyết Danh
Đọc ngược
So đâu dễ ấy giá Hồ Tây ?
Đủ nước non vui thú khéo bày.
To nhỏ nhịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm ,hoa lồng nguyệt,
Ngọc tỏ màu xanh ,nước lẫn mây.
Đồ vẽ khéo kia trời tự trước,
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây !
Khuyết Danh
Xuân Hứng
Đọc xuôi
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài
( Hán )
Khách bộ tùy sương ấn bích đài
Kỳ cục đă thanh phong giáp trận
Tửu hồ khuynh bạch tuyết ḥa bôi !
Sơ liêm thấu nguyệt hương hung trúc,
Tuyết án lăng hoa vị áp mai
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
U t́nh cố năi thuộc quyên ai !
Khuyết Danh
Đọc ngược theo phiên âm chữ nôm :
Ai quen thuộc ấy có t́nh ư ?
Điếm tĩnh đầu am cỏ phất phơ
Mai ép mùi hoa lùng án tuyết
Trúc lồng hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén ḥa tuyết trắng nghiêng hồ rượu
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sương theo bước khách
Hài hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.
Khuyết Danh
31-Phá cách
Thơ làm thất niêm có dụng ư
Trèo Đèo Ba Dội
Một đèo,một đèo,lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ hoét tùm hum nóc,
Kẽ đá xanh ŕ lún phún rêu.
Lắt léo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đ́a lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mơi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Hồ xuân Hương
Chú thích
Bài thất ngôn bát cú này làm theo thể b́nh,vần b́nh Nhưng không theo niêm luật.
Mấy Điều Kỵ Trong Thơ
Phép làm thơ ,có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến :
1-Thất luật
những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
2-Thất niêm
Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng
3-Lạc vận
Đang theo vần này mà gieo sang vần khác, như như vần trên là trời mà vần dưới là mây th́ gọi là lạc vận
4-Xuất vận
Người ta đă hạn định cho những cho những vần ǵ,mà ḿnh dùng vần khác,th́ gọi là xuất vận.
5-Trùng vận
Câu trên đă dùng một vần ,câu dưới lại dùng dùng như thế nữa th́ gọi là trùng vận.
6-Cưỡng áp
Các vần gieo ép uổng, không được hiệp lắm
7-Khổ độc
Trong một bài thất ngôn,chữ thứ ba các câu chẵn,trong một bài ngũ ngôn,chữ thứ nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
8-Phong yêu hạc tất
Trong thơ thất ngôn,từ thứ tư và tứ thứ bảy,trong thơ ngũ ngôn,từ thứ hai và từ thứ năm nếu trùng một âm
9-Đối không chỉnh
Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân
10-Trùng từ hay trùng ư
Từ hay ư đă dùng rồi mà lại c̣n dùng nữa.
* Tài liệu tham khảo
1- Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dương Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
2- Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thư,1965
3- Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phương, 1952
4-T́m Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam ,nxb Văn Học-Hà NộI , 1996
5-Khảo Luận Về Thơ , Lam Giang, nxb Đồng Nai, 1994
6-Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu , nxb Văn Học-Hà Nội ,1971
7-Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Đến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn Học-Hà Nội , 1974
8-Thơ Văn Yêu Nước (1858-1900) , Chu Thiên ,nxb Văn Học - Hà Nội , 1970
9-Chơi chữ , Lăng Nhân, nxb nam Chi Tùng Thư, 1961
10-Việt Nam Găm Hoa ,Hương-Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn-Canada,1997
11-Người Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tường , nxb Thuận Hóa ,1998
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
tanhtanh5
member
REF: 330785
04/14/2008
|
cám ơn huynh goldsnow
nhứng kiến thức huynh đưa ra rất hữu ích cho những ai muốn làm thơ
|
|
goldsnow142
member
REF: 468819
07/29/2009
|
KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
VÀ TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ MỘT BÀI THƠ
Bài của Nguyễn Vũ Văn
LỜI NÓI ĐẦU
Đây là những nhận xét của tôi sau nhiều năm làm thơ và xem thơ, tuy rằng tôi làm thơ rất ít. Những nhận xét này không tránh khỏi c̣n nhiều thiếu sót và sai lầm, nhưng tôi không thể ḱm ḷng mà không viết ra một vấn đề mà từ xưa đến nay có lẽ chưa có ai làm, đó là kỹ thuật thơ Việt Nam hiện đại, và nhân tiện đó đi t́m những tiêu chuẩn cho một bài thơ hay.
Nếu bài viết này khơi lên được những lời phê b́nh hay bổ khuyết cho để vấn đề nêu ra được sáng tỏ, đó là điều làm tôi măn nguyện.
Ngoài ra, v́ thiếu sót tài liệu, tôi mạn phép trích dẫn một số câu thơ của tôi, mong độc giả lượng thứ.
Tôi cũng xin cảm tạ các bạn Bồ Tùng Linh, Mai Ninh, Bùi Tiến Hoàng và Mai Anh Tuấn trong nhóm Siliconband đă góp ư kiến và tài liệu cho bài này.
Nguyễn Vũ Văn
vanvung@teleport.com
http://www.teleport.com/~vanvung/
Kể từ khi đất nước bị chia cắt vào năm 1954, thi ca miền Nam với những đỉnh cao như Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng c̣n mang đậm nhiều nét cổ điển. Cho tới năm 1956, khi tạp chí Sáng Tạo ra đời cùng với sự xuất hiện của một số nhà thơ ngoài nhóm Sáng Tạo, văn thơ miền Nam đă có một sắc thái tân kỳ về nội dung cũng như kỹ thuật. Từ đó kỹ thuật thơ Việt Nam càng ngày càng đổi mới, tiến triển, nhưng cũng mang lại không ít ngỡ ngàng cho số đông độc giả. Một số bài thơ có vẻ khó hiểu khiến người ta không chấp nhận được. Và những bài thơ hay không được thưởng thức. Bởi v́ không có tác giả nào nói ra kỹ thuật của ḿnh và có lẽ cũng không có ai khác đề cập đến.
Ngược lại, người ta vẫn ca tụng một số bài thơ mà không chú ư đến kỹ thuật kém cỏi. Vàng thau lẫn lộn.
Bởi vậy bài này được viết nhằm mục đích nêu lên một số đặc điểm của thơ hiện đại, về h́nh thức cũng như nội dung và kỹ thuật, đồng thời đề nghị những tiêu chuẩn của một bài thơ hay.
Trước hết, chúng tôi cố gắng xác định cách hợp vận mà nhiều người c̣n lầm lẫn, sau đó sẽ nêu lên các đặc điểm khác về thơ.
Đoạn 1. CÁCH HỢP VẬN
Nguyên tắc : vần bằng hợp với vần bằng, vần trắc hợp với vần trắc. (Trong âm nhạc, bằng có thể hợp vận với trắc, thí dụ: nhà hợp vận với nhá).
Âm vận : Cách hợp vận trong thơ không có căn bản ngữ âm (phonetics) nào cả, ở đây tôi chỉ dựa theo cách hợp vận cổ truyền mà phân biệt như sau.
Âm vận có 2 loại toàn vận và bán vận.
Toàn vận : 2 từ chỉ khác nhau về phụ âm đầu. Thí dụ: a) t́nh, ḿnh, khinh, linh. b) ta, mà, la, tha.
Bán vận : 2 từ khác nhau trong nguyên âm hay trong nguyên âm và phụ âm cuối.
A.- Bán vận trong nguyên âm : Những âm họp thành nhóm sau đây hợp vận với nhau:
1/ a, ă, â, o, ơ, ô, u, ư, oa, ua, ưa. Thí dụ: a) tha, mo, lu, thư, thoa, qùa, cua, thưa. b) lạ, thố, thụ, thóa, qụa, thủa, thửa, lựa. c) chang, rằng, nằm, lầm. d) thôn, mun,
2/ i, e, ê, oe, ue, uê, uy. Thí dụ: a) thi, me, ve, que, quy. b) thí, lẹ, thế, nhuệ. c) thịt, khét, chết. d) em, quen, đêm.
3/ ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, oai, ui, ưi, ươi, uôi. Thí dụ: a) thai, chay, khoai, ṃi, thôi, lơi, thui, người, nguôi. b) thái, cậy, mọi, đổi, củi, ngửi, lưới, đuối.
4/ i, uy, uya
5/ ia, uya.
6/ i, e, ê, iê, uyê. Thí dụ: a) tin, men, lên, thiên, thuyền. b) tịt, lét, tết, khiết, khuyết, tuyệt, tiếc, tích.
7/ a (+phụ âm), o (+phụ âm), ô (+phụ âm), u (+phụ âm), ư (+phụ âm), ươ (+phụ âm). Thí dụ: chang, trong, nung, lưng, chương, chuông; trọng, chúng, thượng, chuộng, nướng; nóc, được.
8/ oa (+phụ âm), uâ (+phụ âm), uô (+phụ âm). Thí dụ: a) loan, luân. b) thoát, khoác, luật, thuốc. c) loang, khuôn, chuông, khuân, khuâng.
9/ ao, âu.
10/ eo, oeo, êu, iêu, yêu, iu.
Tóm tắt, nguyên âm chia làm 2 nhóm chính có âm phân biệt: (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư ) và (i, y, e, ê) . Nếu 2 nhóm này mà hợp vận với nhau th́ bằng cách bắc cầu từ âm nọ qua âm kia, th́ bất cứ 2 âm (2 nguyên âm hay 2 nhóm nguyên âm trong một từ) nào cũng có thể hợp vận với nhau.
B. Bán vận trong nguyên âm và phụ âm cuối . Nguyên âm th́ theo nguyên tắc trên. Phụ âm cuối có thể thay đổi như sau:
1/ c, ch, t, p. Thí dụ: lắc, trách, tát, chập.
2/ n, nh, m. Thí dụ: a) than, cành, chàm. B) cận, thánh, cám.
3/ n, ng. Thí dụ: a) than, thong, không, thằng. B) cận, thắng, cống.
Thơ tự do rất hợp với bán vận. Trong thể thơ này, vần hợp nhau chan chát (thí dụ: h́nh, t́nh) làm câu thơ kém hay.
Điều tối kỵ trong âm vận : dùng 2 chữ giống nhau trong 2 vần kế tiếp hay trong 3 câu lục bát kế tiếp, ngoại trừ trường hợp nhắc đi nhắc lại để nhấn mạnh. (Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ). Thí dụ:
Nhà em mái tranh
Trắng giàn dây mơ
Bây giờ hoa cũ
Rụng hoài trong mơ (Phạm thiên Thư - Giàn mơ)
Tôi phải dỗ như là tôi đă lớn
Phải thẹn tḥ như sắp cưới hay vừa yêu
Phải nói vơ vào, rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm: ai thế (Nguyên Sa - Tuổi 13)
Những câu thơ lạc vận :
Thơ lạc vận có rất nhiều trong các tạp chí và Web sites, không tiện trích dẫn ra đây.
Thỉnh thoảng trong bài thơ có một hai chỗ lạc vận th́ c̣n có thể bỏ qua. Chứ cả đoạn lạc vận th́ bài thơ không c̣n giá trị.
Ngay cả những nhà thơ nổi tiếng cũng có những câu lạc vận, do vô t́nh hay cố ư. Thí dụ:
Từ ngày đàn rẽ đường tơ,
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan .
Kéo dài một chiếc áo len ,
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Khánh ơi, c̣n hỏi ǵ anh?
Xưa t́nh đă vỡ, nay t́nh c̣n nguyên. (Thâm Tâm - Gửi T.T.Kh)
Buồm lên biển tím chênh vênh,
Một đêm gă bỏ t́nh nhân lại bờ.
Ḷng qùy nhớ mặt trời xa,
Vào quán biển hỏi thăm ngườ i xa xưa (Phạm thiên Thư - Quán rượu ven biển)
Con chim én cùng với thơ bay trong nắng
Trên môi anh dường có ngọn cỏ thơm
Là ngón tay nào trong mười ngón tay em
Có cả nụ hôn đầu quanh quất đó...
Tháng Giêng và anh rủ nhau ngồi dưới phố
Tô môi hồng xin nhớ cánh sen non
Tháng Giêng chờ một chút lượng xuân em
Nụ cười đó, anh chờ xuân vĩnh viễn (Nguyên Sa - Tháng giêng và anh)
Sao hương sắc lên mắt ḿnh t́nh tứ
Và đôi mắt nh́n tôi ngập nhừng chim sẻ (Nguyên Sa - Tuổi 13)
Em chưa nh́n mà đă rộng trời xanh
Anh đă trông lên bằng đôi mắt chung t́nh (Nguyên Sa-Áo lụa Hà Đông)
Có phải tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng đợi chờ em ?
Hay từng hơi thở là âm nhạc
Đàn xuống cung trầm mắt nhơ ?thương ? (Nguyên Sa - Tương Tư)
Đoạn 2. H̀NH THỨC THƠ
I. Sự chọn lựa thể thơ
Thể thơ có nhiều: thơ đều chữ, không đều chữ và thơ tự do. Ở đây tôi không nói đến thơ Đường luật mà chỉ nói đến các thể thơ mới.
1/ Thơ đều chữ thay đổi từ 2 đến 8 chữ trong một câu.
Loại 2 chữ cũng như loại 3 chữ khiến hơi thơ ngắn, và bài thơ cũng thường ngắn, không nói ǵ được nhiều. Người dùng loại thơ này nhằm mục đích nói lên những âm thanh ngắn như tiếng nức nở, tiếng mưa rơi...
Thí dụ :
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu
Nhưng hơi
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào ...
(Nguyễn Vỹ - Sương rơi)
Loại 4 chữ phổ biến hơn, nhưng coi chừng dễ biến thành vè.
Thế nào là vè? Vè là thơ dân gian, loại thường thấy là Sớ Táo Quân.
Vè có thể là thơ 2 hay 3 chữ, nhưng thường dùng thể 4 chữ hay lục bát. Vè 4 chữ dùng liên vận, tức là 2 câu liền nhau vần với nhau, thay đổi giữa bằng và trắc. Vè không chia bài thơ thành từng đoạn 4 câu.
Loại 4 chữ chia từng đoạn 4 câu và dùng cách vận (giống 4 câu đầu của thể thất ngôn) th́ hay hơn liên vận.
Loại 5 chữ thường chia đoạn 4 câu và dùng cách vận.
Loại 6 chữ cũng ít được dùng, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy trên thi đàn.
Xuân hồng có chàng tới hỏi
- Em thơ chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi hoa ngát cài đầu
Đi hái phù dung trong nội !
(Huyền Kiêu - T́nh sầu)
Thể thơ từ 4 đến 6 chữ cho hơi thơ trung b́nh, thích hợp với phong thái nhẹ nhàng, trang trọng.
Loại 7 chữ rất phổ biến. Niêm luật không c̣n trói buộc, miễn là đọc lên, câu thơ không trúc trắc. Thể thơ này thích hợp với phong thái trang nghiêm, cổ kính.
Loại 8 chữ là thể thơ hoàn toàn Việt nam, dùng liên vận, nhưng cũng ít được dùng. Thể thơ này thường diễn tả những t́nh cảm tha thiết, hùng tráng. Điển h́nh nhất là bài "Hổ nhớ rừng" của Thế Lữ. Gần đây Nguyên Sa hay dùng thể thơ này.
Dĩ nhiên câu thơ càng dài th́ có tính cách kể lể nhiều hơn và không cần xén bớt từ.
Thơ đều chữ biến thể có chêm ít câu không đều chữ, hoặc thay đổi số câu (thay v́ thông thường là 4) trong đoạn. Thể thơ này thường xảy ra với loại 4, 5 hay 6 chữ.
Thí dụ về thay đổi số chữ trong câu:
--thơ 5 chữ
Khoảng thời gian loăng đó
Không có mặt nàng
Mưa đỏ miền cao nguyên
Núi đồi sầu lụn bại
Khi tôi trở về
Thành phố lạnh khoang xe
Mây sương ḷng thung lũng
Và ngàn thông co ro
(Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)
--thơ 8 chữ
Hăy biến cuộc đời thành những tối tân hôn (9 chữ)
Nếu em sợ thời gian dài vô tận
Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống (9 chữ)
Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm (9 chữ)
(Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)
Thay đổi số câu trong đoạn:
Anh đứng đây là đâu
Em cười như lá mỏng
Khép cửa vào chiêm bao
Anh đứng đây là đâu
Em nói như gió nghẹn
Chiều nghiêng mây Thị Mầu
(Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)
2/ Thơ không đều chữ có lục bát và song thất lục bát.
Song thất lục bát không c̣n được dùng.
Lục bát là loại phổ biến nhất v́ dễ làm, nhưng người mới làm thơ cũng dễ biến nó thành vè. Dễ làm nhưng khó sửa. Làm câu nào là chết câu ấy. Bài thơ làm xong rồi, muốn thêm bớt một đoạn là cả một vấn đề bởi v́ vần thơ cấu kết với nhau theo kiểu liên hoàn, vừa yêu vận (vần nằm giữa câu) vừa cước vận (vần ở cuối câu).
3/ Thơ tự do.
Loại thơ này rất thông dụng nhưng đ̣i hỏi kỹ thuật và sự sáng tạo nhiều nhất. Nhiều người cho rằng người mới làm thơ nên làm các loại thơ khác trước khi làm thơ tự do, để nắm vững kỹ thuật và âm điệu.
Một loại thơ tự do đặc biệt là thơ xuôi, có h́nh thức như văn xuôi. Loại thơ này cần hơi thơ dài, mặc dù bị cắt thành từng câu ngắn, và dường như không chú ư đến âm vận.
Thí dụ:
Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu xó chợ...
Hỡi Liên, những Liên và Liên
Dù một chút đau thương, từ chối, tổ quốc ta chạy dài trên địa ngục, x̣e mở hai bàn tay anh khóc đó - những cánh tay gầy trơ xương, chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù.
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, những bài thơ t́nh thời xa cách)
Tôi giữ em lại trên một hè phố đông người. Em đừng ngần ngại. Tôi bảo rằng: tôi yêu em.
Tôi nói không thẹn thùng, không đắn đo ḍ xét. Bởi v́ em ơi tôi không phải là gă lái buôn hỏi giá hàng trong một buổi chợ chiều hỗn loạn. Cũng không phải là ngưọi thư kư già ngồi mân mê vài chiếc đinh ghim và mưu toan làm chủ sự...
(Nguyên Sa - Ngỏ ư)
II. Cách chấm câu và xuống ḍng
Về cách chấm câu, mỗi người một ư. Có người chấm câu rất cẩn thận, có người không chấm câu. Người ta cho rằng việc xuống ḍng không có dấu chấm phẩy bao hàm sự kéo dài ư nghĩa của câu thơ, "những khoảng trống có ư nghĩa".
Theo ư tôi, thơ lục bát nên có chấm câu v́ mỗi ư thường chỉ gói tṛn trong 2 câu lục và câu bát kế tiếp.
Lại có người không viết hoa ở đầu câu, làm như bài thơ chỉ là một trích đoạn.
Cũng có người chấm câu ở giữa ḍng mà không xuống hàng. Nguyễn xuân Thiệp chẳng hạn, chấm câu giữa ḍng và không viết hoa:
hỡi gió mùa
đă thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
thổi qua những rặng núi. những ḍng sông. những xóm làng. thành phố quê hương tôi
(Nguyễn xuân Thiệp - Tôi cùng gió mùa)
Trong thơ tự do, chỗ xuống ḍng là để qua một ư thơ khác, để thay cho một dấu chấm hay dấu phẩy, để ngắt hơi thơ, để nhấn mạnh một chữ hay cụm từ hoặc để thể hiện một thanh âm...
Dưới đây là thí dụ về sự nhấn mạnh bằng cách xuống hàng:
Hôm nay
Nghe lời hát quen quen
Người đàn bà ấy mang tên
Lời từ biệt
Trên một sân ga vắng
Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray
Đầy dĩ văng
(Thanh Tâm Tuyền - Bao giờ)
Những câu "Hôm nay", "Lời từ biệt" và "Đầy dĩ văng" được xuống ḍng để nhấn mạnh.
Dấu phẩy rất cần thiết cho ư nghĩa cũng có thể bị tước bỏ. Trong câu dưới đây, tác gỉa muốn nói chờ đợi nhiều người chứ không phải một người :
Tôi chờ đợi
một người không
nhiều người
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu)
Dù sao, cách chấm câu cũng chỉ là tiểu tiết, không ảnh hưởng đến phẩm chất bài thơ.
Đoạn 3. NỘI DUNG
1/ Dàn ư
Ít nhà thơ nào làm thơ có dàn bài (plan). Tuy nhiên, với những bài thơ có phân đoạn, hoặc thơ tự do, việc sắp xếp lại các câu thơ cho có tŕnh tự hợp lư là điều cần thiết.
2/ Ư thơ
Bài thơ hay phải có ư thơ mới lạ. Mới lạ trong chi tiết, trong cách so sánh, cách liên tưởng... Ư thơ có thể rất tinh tế, sát với thực tế, nhưng cũng có thể rất cường điệu.
Để tả sự trống vắng trong tâm hồn :
Sao tuổi trẻ qúa buồn
Như bàn ghế không bầy
(Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)
Để diễn tả vẻ buồn :
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
(Nguyên Sa - Nga)
Để diễn tả mái tóc vàng và đôi mắt nâu :
Tôi sẽ sang thăm em
Để những mái tóc màu củi chưa đun
Mầu gỗ chưa ai ghép làm thuyền
Lùa vào nhau nhóm lửa ...
Hay đôi mắt màu thóc đang say
Mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy
(Nguyên Sa - Tôi sẽ sang thăm em)
Để diễn tả mái tóc mun :
Mùa tóc mun
Đẹp những khu rừng không bóng cây
(Thanh Tâm Tuyền - Mai)
Để diễn tả bàn tay trắng nơn, đôi mắt long lanh và đôi mắt ngọc bích :
Những ngón tay dài ướp trọn mấy ngàn thu
Mà men sáng trong xanh màu trăng vời vợi
...
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
Thượng Đế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
...
Mắt dịu ngọt đúc từ rừng ngọc bích
Hay linh hồn trăm phiến đá chân tu ?
(Nguyên Sa - Đẹp)
Để diễn tả bước chân nặng nề và nỗi ḷng chất chứa :
Ta về từng bước chân là núi
Thăm thẳm ḷng mang một biển sâu
(Khoa Hữu - Trở về)
Để diễn tả sự đành tâm chia ly :
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
(Thâm Tâm - Tống biệt hành)
Để diễn ta t́nh trạng giải phóng, tự do cá nhân :
Tôi chờ đợi
Cười lên sặc sỡ
La qua mái ngói
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu)
Buồn v́ tuổi trẻ bất lực :
Hôm nay
Tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu)
Vân vân.
Để kết thúc đoạn này, tôi xin nhắc đến loại thơ tượng trưng. Tượng trưng chứ không phải biểu tượng. Trong bài thơ loại này, tác giả có thể dùng bất cứ cái ǵ để tượng trưng cho đối tượng mà tác giả ngầm nói tới.
Thí dụ bài này:
Cánh đồng con ngựa chuyến tàu
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt
G̣ nổng cao rồi thung lũng sâu
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
Cánh đồng a ! cánh đồng sắp hết
Tàu chạy mau càng mau càng mau
Ngựa ngă lăn ḿnh mướt như cỏ
Như giữa nền nhung một vết nâu
(Tô thùy Yên)
Bài này nói về kiếp số con người. Chuyến tàu là thời gian, cánh đồng là đời người, con ngựa là con người.
Hy vọng
Con bướm lạc vào cánh đồng
Đóa hoa thành ruộng lúa
Con bướm khóc giữa cánh đồng
Hồn hoa thành đứa nhỏ
Con bướm chết trong bàn tay
(Nguyễn Vũ Văn)
Bài này nói về niềm hy vọng bị bóp chết bởi sự lừa dối.
Đoạn 4. TỪ NGỮ
Bài thơ hay không nên dùng những từ ngữ đă dùng nhiều trong văn thơ, nhất là tính từ, tỉ dụ như : (ḷng) tê tái, (dài) lê thê, năo nùng... Tuy nhiên, ta có thể làm mới những từ ấy bằng cách dùng nó theo ư nghĩa khác đi một chút. Thí dụ chữ "thăm thẳm" thường dùng để chỉ chiều sâu, Tô Thùy Yên dùng cho tiếng chó tru (trong bài "Góa phụ") để nói lên âm thanh dài và cao. Thanh Tâm Tuyền dùng "điệu nhạc gầy" để nói lên những nốt nhạc cao ("Dạ khúc").
Thanh Tâm Tuyền c̣n dùng từ "cười sặc sỡ" ("Bài ngợi ca t́nh yêu"). Không biết ông muốn nói "cười sặc sụa", "cười muôn màu, đủ mọi kiểu", hay là "cười điên dại" ("điên dại" th́ có liên quan ǵ đến "sặc sỡ" ?) :
Tôi chờ đợi
cười lên sặc sỡ
la qua mái ngói
thành phố ruộng đồng
bấu lấy tim tôi
thành nhịp thở
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu).
Một bài thơ b́nh dị, không có từ mới, vẫn có thể là bài thơ hay, rất hay, miễn là có góc cạnh mới lạ, lời thơ giản dị, trong sáng, hay nồng nàn, thành khẩn...Thí dụ :
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
(Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng thị)
Hay là:
Nhớ chăng Barbara
Hôm ấy mưa rơi hoài xuống Brest
Anh gặp em ở phố Xiêm
Em mỉm cười
Và anh cũng mỉm cười
(Thanh Tâm Tuyền - Barbara, dịch thơ Jacques Prévert)
Hay là:
Đón em suốt băi sông Hằng
Cát muôn kiếp măi nhớ lần gặp xưa
Hẹn về dù nắng dù mưa
Hẹn về dù sớm dù trưa cũng về
(Tô Thùy Yên - Suốt băi sông Hằng)
Sáng tạo
Ngoài ra, thơ hay cần từ ngữ sáng tạo. Thi sĩ mất nhiều th́ giờ ở điểm này. Sáng tạo không phải là chế ra chữ mới, mà dùng chữ đă có với nghĩa khác thường. (Chế ra chữ mới cũng được thôi, nhưng nếu người đọc không hiểu th́ lại thành thơ bí hiểm.)
Hăy xem những từ gạch dưới :
Em về, cát bụi ̣a lên
Trăm thương ngh́n nhớ vỡ rền thế gian
(Tô Thùy Yên - Suốt băi sông Hằng)
Tiếng kèn hát măi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
(Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)
Người đàn ông trở dậy sau giấc ngủ trưa
Mặt trời sáng ḷa
Một người nào đội nón đi ra
Tiếng guốc bốc cháy lên hàng cây tù tội
(Nguyễn Vũ Văn - Cảm giác buổi chiều)
Tô Thùy Yên phục hồi cổ ngữ. Một cách làm mới thơ ? Hăy xem:
Đêm nằm, lệ chảy ṃn tay
Nghe chừng đá nát vàng phai đến điều
(Hái rau)
Đ̣i phen toan đẩy cửa liều
Ra cùng thiên hạ vui chiều ngửa nghiêng
(Suốt băi sông Hằng)
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một ḿnh
(Góa phụ)
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Giữa cánh đồng không bên kia sông
(Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)
Dưới đây là những chữ do tác giả sáng chế ra, để độc giả tự t́m hiểu :
Rừng đưa mái vơng treo triền
Như quằn chiều sánh, như lền gió qua.
(Tô Thùy Yên - Hái rau)
Nổi ch́m, lệ lợ máu lền
Đau thương thôi đă pha rền tử sinh
(Tô Thùy Yên - Suốt băi sông Hằng)
Những ư thơ thách đố độc giả:
Em nói như gió nghẹn
Chiều nghiêng mây Thị Mầu
(Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
(Hoàng Cầm - Đêm thổ)
Vừa khi vuốt tóc nh́n chênh bến
Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
Hoa khô xây bậc cho thềm ngọc
Một phím đàn đôi bốn cánh bay
Ngự đỉnh dài ánh nguyệt xuyên xanh
Đón chào nữ chúa khóc vô thanh
(Hoàng Cầm - Ngă ba sông)
Biểu tượng
Thi ca thường dùng biểu tượng, thí dụ mùa xuân hay mầu hồng chỉ sự tốt đẹp, mùa đông hay màu xám chỉ sự buồn rầu, chết chóc. Biểu tượng có tính cách phổ quát, được mọi người chấp nhận. Thơ hay cũng cần làm mới biểu tượng.
Thí dụ, Trần Dạ Từ dùng hoa và trái thay cho mùa xuân :
Hoa và trái một đêm nào thức dậy
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
(Mộng đời)
Riêng Thanh Tâm Tuyền có lối dùng biểu tượng rất độc đoán :
Sao tuổi trẻ qúa buồn
Như con mắt giận dữ
(Dạ khúc)
Giận dữ không thể là biểu tượng cho cái buồn. Con mắt giận dữ có thể buồn, nhưng buồn không nhất thiết có nét giận.
Nếu đă đi từ Hà Nội xuống Hải Pḥng hay sang Bắc Ninh
Nếu đă đi từ Sài G̣n xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Đầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một ḿnh
(Bao giờ)
Những đoạn đường nói trên cũng không buộc phải là đoạn đường độc hành.
Điệp ngữ
Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ trong cùng một câu hay trong những câu liên tiếp, như dưới đây :
Quê nhà ôi những đêm tàn lửa
Phía mặt trời ai gọi lửa lên
(Khoa Hữu - Trở về)
Hay là :
Mười năm thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
(Tô Thùy Yên - Ta về)
Những trường hợp dùng điệp ngữ :
1 - để nói đến ư của chính chữ đó:
Ôi, mê hoặc ngày ta trở lại
Núi c̣n đây tưởng núi hoang đường
(Khoa Hữu - Trở về)
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi
(Tô Thùy Yên - Ta về)
2 - để nhấn mạnh :
Mặt trời mọc !
Mặt trời mọc !
Rưng rưng mùa hoa gạo
(Quách Thoại - Trăng thiếu phụ)
3 - để diễn tả một động tác kéo dài hay lập đi lập lại :
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
(Tô Thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)
4 - để tạo âm hưởng đặc biệt :
Ở đây ta có dăm người bạn
Phúc tự tâm, không lư đến đời
Ở đây ta có dăm pho sách
Và một ḍng sông, mấy cụm mây...
Ḍng sông hiền triết trôi vô lượng
Ḍng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm...
(Tô Thùy Yên - Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tṛn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
(Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)
5 - để mở rộng ư phụ :
Dưới đây là một bút pháp nhằm mở rộng một ư mà vẫn giữ tính cách thống nhất của ngữ pháp :
Nhân danh dân chủ tự do
Chúng bán đầy đường súng đạn
Chúng bán đầy đường sinh mạng
Dạy nhau cách giết người
Lấy tội ác viết tiểu sử
(Nguyễn Vũ Văn - V́ sao)
Trong đoạn thơ trên, câu thứ 3 nhằm mở rộng ư của câu thứ 2 (súng đạn = sinh mạng) mà vẫn giữ được chữ "Chúng" làm chủ từ (subject) cho 2 câu cuối cùng.
Đoạn 5. BÚT PHÁP
Bút pháp là cách hành văn, bao gồm cả cú pháp (syntax, syntaxe), lối viết (style) và cách diễn đạt (tournure, turn of phrase).
Bút pháp thơ thật là đa dạng. Có những cách mà các nhà thơ đều dùng để cô đọng thơ, so sánh đối tượng, làm mới thơ... Ở đây tôi xin nói đến một số bút pháp chung và bút pháp đặc biệt của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, và Nguyễn xuân Thiệp.
A.BÚT PHÁP CHUNG
1. Dùng từ đồng cách (apposition)
Đồng cách từ là bút pháp phổ biến nhất để giải thích, so sánh, mở rộng ư nghiă của một từ ...
Thí dụ :
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Ṿng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
= Cánh tay em là ṿng ân ái.
Trán mênh mông, cánh sông dài
Thổ ngơi xuôi mái, hồn ngoài châu thân
(Viên Linh - Nghi hoặc nỗi ǵ)
= Trán mênh mông như cánh sông dài
2. Xén bớt những từ để cô đọng lời thơ
Xin đọc đoạn thơ này:
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn
...
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em
(Tô Thùy Yên - Góa phụ)
Bạn có thể nhận thấy những từ gọt bỏ nếu diễn ư như sau :
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu, về khuya, v́ mỏi nên nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm làm ngây ngất thiên địa
Trên mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn xuống
...
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian trên mái tóc em
Thí dụ 2 :
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Ṿng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
Diễn ư :
Đôi khi anh muốn tin
Rằng ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa là cánh tay em quyến rũ
Thí dụ 3 :
Hồn thảo mộc giấc ngủ
Nằm mơ những ngôi sao mặt trăng
(Thanh Tâm Tuyền - Mai)
Diễn ư :
Trong giấc ngủ, hồn như hồn của thảo mộc
Nằm mơ những ngôi sao và mặt trăng
Thí dụ 4 :
Tao nhớ mày những rừng giang đồi sắn
Điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
Ngọn rau hoang tô canh ảm đạm
(Nguyễn Vũ Văn - Nhớ người vượt biển)
Diễn ư :
Tao nhớ mày cùng những rừng giang, đồi sắn
Cùng điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
Cùng ngọn rau hoang làm nên tô canh ảm đạm
3. Xén bớt từ để làm mới thơ
Những từ trong ngoặc dưới đây đă được lược bỏ để làm mới cú pháp :
Nhớ em một đóa thanh tao
Kết tinh nữ sắc từ (khi) vào trần gian.
(Nguyễn Vũ Văn - Sợi tóc)
Ngàn (năm) xưa ai từng ở nơi này
Rồi đến (năm) ngàn sau ai đến đây
(Phạm Thiên Thư - Liềm trăng)
Vân vân
4. Thêm từ
Nhiều từ được thêm vào cho ư thơ có vẻ mới lạ, nhưng thật ra không có tác dụng ǵ.
Thí dụ những từ gạch dưới trong các câu này :
Hôm nay
tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền)
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
(Trần Dạ Từ - Nụ hôn đầu)
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
(Phạm Công Thiện - Ngày sinh của rắn)
5. Đổi chữ
Thay v́ "tôi chờ đợi lớn lên như giông băo" :
Tôi chờ đợi
Lớn lên cùng giông băo
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu
6. Mượn cái này tả cái khác :
Để tả nỗi khao khát ra biên giới mà vùng vẫy :
Đường nào ra biên giới
Gió vẫy vùng cỏ cây
(Nguyễn Vũ Văn - Cỏ úa)
7. Kết hợp ư của các mệnh đề độc lập (independent clauses).
Thí dụ 1 :
Khúc t́nh ca thần nữ
Người con gái khỏa thân
Vung lên từng chuỗi ngọc
Trong miền sương mong manh
(Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)
Câu thứ nhất độc lập với các câu sau về ngữ pháp, nhưng kết hợp với ư của các câu đó thành một chi tiết duy nhất.
Thí dụ 2 :
Chiếc cửa sổ nào ai mở ra
Tiếng dương cầm bâng khuâng một thời dĩ văng
(Nguyễn Vũ Văn - Cuối thu)
Hai câu trên hàm ư tiếng đàn thoát ra từ cánh cửa sổ mở rộng.
8. Cụ thể hóa những cái trừu tượng
Đây là nỗi buồn lởn vởn :
Nỗi buồn như bầy chiên
Vây quanh chàng mục tử
(Nguyễn Vũ Văn - Những cánh tay của gió)
9. Trừu tượng hóa những cái cụ thể
Nghe thiên thu cũng trở trời
Áo phơi mùa trước như lời bỏ quên
(Tô Thùy Yên - Suốt băi sông Hằng)
Sợi tóc đen như một chuỗi cười
Trên chùm môi lá biếc
(Thanh Tâm Tuyền - Tháng giêng)
10. Dùng đảo ngữ
Đảo ngữ thường được dùng với mục đích :
- thỏa măn âm vận hay âm điệu :
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Ṿng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
Quản chi lớp lớp hư h́nh
Dài đêm đăm đắm mắt nh́n quầng thâm
(Tô Thùy Yên - Suốt băi sông Hằng)
Vừa khi vuốt tóc nh́n chênh bến
Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
(Hoàng Cầm - Ngă ba sông)
- thay đổi bút pháp :
Người về như sóng
Buồn tôi quanh năm
...
Bóng h́nh chia đôi
Sầu tôi lụ khụ
(Du Tử Lê - Một bài thơ nhỏ)
B. BÚT PHÁP NGUYÊN SA
Nguyên Sa có một lối viết đặc biệt, luôn luôn nghĩ ra những chi tiết rất nhỏ, ngộ nghĩnh, vẩn vơ, đôi khi chẳng có ư nghĩa ǵ, nhưng đó lại là chất thơ của ông.
Bầu trời mây ở dưới áng mây cong
Em có muốn anh giữ giùm phân nửa?
....
Bài hát đó mang cho anh ḥ hẹn
Em nhớ mang vàng cho cúc, ngọc cho lan
Mang cầu vồng cho khoảnh khắc mưa tan
Và môt chút vai em cho huệ trắng...
....
Yêu cuộn tṛn trong tám chữ mây qua
Khi em tới lượn ṿng trên mái tóc...
(Tháng giêng và anh)
Em có đứng ở bên bờ sông
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo gịng nước
Anh sẽ t́m em trong bóng trăng
(Paris có ǵ lạ không em)
Nguyên Sa ưa dùng công thức : "A hay là B", "sao không A mà như có A", "sao không A để cho tính cách/hậu qủa của A", và "có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A".
1. "A hay là B"
Đôi khi B chẳng có ư nghĩa ǵ, chỉ là ư tưởng vơ vẩn.
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Có phải mùa xuân sắp sửa về
Hay là gió lạnh lúc đêm khuya
Hay là em chọn sai màu áo
Để nắng thu vàng giữa lối đi?
(Tương tư)
Nắng thu vàng có liên quan ǵ đến gió lạnh và màu áo? Nếu nắng thu vàng là màu áo th́ có liên quan ǵ đến gió lạnh?
Hay là :
Muôn v́ hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi
Người về trên một ḍng sông xanh
Trên một con tàu hay một ga mông mênh
Sao người không chọn sông vắng nước
Hay nước không nguồn cho sông đi quanh?
(Tiễn biệt)
Sông vắng nước để cho nước cạn, người không đi xa. Sông đi quanh để cho thuyền đi ṿng trở lại.
2. "Sao không A mà có như có A"
Sao người không là một con đường
Sao tôi không là một ga nhỏ
Mà cũng có những giờ gặp gỡ
Cũng có những giờ chia tan ?
(Tiễn biệt)
3. "Sao không A để cho có tính cách/hậu qủa của A"
Sao người không là v́ sao nhỏ
Để cho tôi nh́n trong đêm thâu ?
Sao người không là một cung đàn
Cho tôi mềm ḷng trong tiếng than
(Tiễn biệt)
4. "Có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A"
Có phải tên người là âm thanh vô vọng
Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
Thượng Đế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
(Đẹp)
Nguyên Sa cũng hay hỏi tại sao :
Tay anh dài sao em không gối mộng
Thơ anh say sao chẳng uống cho đầy
Mắt thuyền trôi anh chèo cả hai tay
Sao chẳng ngự cho hồn anh xuống nhạc
(Người em sống trong cô độc)
Bút pháp này gợi nhớ đến bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong ḷng ?
Trời chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
C. BÚT PHÁP THANH TÂM TUYỀN
Những chữ "vậy em biết không" dưới đây tạo ra một âm hưởng đặc biệt, tha thiết :
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm t́m tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở v́ t rời th ́ xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không ? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời t́m thấy)
Nếu bạn muốn khóc cho những cuộc t́nh tan vỡ mà không ra được nước mắt, bạn sẽ viết như thế nào ? C̣n Thanh Tâm Tuyền th́ mượn đôi mắt của người khóc:
Hăy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc t́nh duyên Budapest
(Thanh Tâm Tuyền - Hăy cho anh khóc bằng mắt em)
Nói đến một con người tội lỗi trong cái "tôi" :
Tôi xin một chỗ qùy thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Sợ chó dữ
Con chó đói không màu
...
Em bé quàng khăn đỏ ơi
Này một con chó sói
Thứ cho sói lang thang
(Phục sinh)
Nỗi buồn v́ tuổi trẻ bất lực :
Hôm nay
Tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca t́nh yêu)
Thanh Tâm Tuyền có một bút pháp rất "Tây". Hăy xem ông diễn tả :
- Người đàn bà nhớ lại những câu thơ cũ :
Những lời thơ rất cũ
Gơ cửa trái tim nàng
(Mai)
- Một người đàn bà đă ra khỏi đời ḿnh :
Người đàn bà ấy mang tên
Lời từ biệt
(Bao giờ)
Một bút pháp đặc thù Thanh Tâm Tuyền hay sử dụng là dùng một đối tượng khác để diễn tả đối tượng ḿnh đang nói tới. Bạn buồn ư ? Đừng nói "tôi buồn", mà nói "trời buồn" hay "con ngựa buồn".
Thật vậy, để diễn tả nỗi buồn trong đôi mắt, TTT dùng mắt ngựa thay cho mắt đối tượng. Bạn có thể thay bằng một con vật khác và ư thơ không thay đổi:
Con ngựa buồn
Lửa trốn con ngươi
(Bài ngợi ca t́nh yêu)
Để diễn tả một sự tương thuộc, TTT dùng cỏ và hoa thay cho hai đối tượng, nhưng bạn cũng có thể thay bằng hai cái ǵ khác :
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
Những ngón tay những ngón chân những nụ cười
(Cỏ)
D. NGUYỄN XUÂN THIỆP : THƠ TÙY BÚT
Tùy bút là một thể loại hồi kư ngắn ghi lại những cảm nghĩ liên quan đến một ngoại cảnh nào đó.
Trong một số bài, Nguyễn xuân Thiệp làm thơ như viết tùy bút, như văn xuôi có vần, không dùng biểu tượng, không thắc mắc về từ ngữ mới, và không dùng các bút pháp thông thường của thi ca như đă đề cập trong đoạn này. Lời văn giản dị. Ư thơ tinh tế, cái tinh tế của thể tùy bút.
Hăy đọc :
này em. chưa đan xong chiếc áo len quàng cổ
th́ gió mùa đêm nay đă đến đầy pḥng
thổi rung liếp cửa
em có nghe t́nh ta âm vang dưới bầu trời hun khói
âm vang qua đồng cỏ tranh
lại gặp nhau
tôi cùng gió mùa
để đêm nay có người lục lại gối chăn trong ḥm cũ
t́m lại chiếc gương xưa
để sớm mai
hồng má trẻ con
se môi thiếu phụ
để người đi xa một sớm quay về
(Tôi cùng gió mùa)
khi bầy chim ngủ đỗ ở những ngoϮ cây bên b́a rừng
cuخg cất tiếng hót
đợi ngày lên
chúng tôi. những t́nh nhân thất laϣ nhau trên mặt đất
không được nh́n thấy nhau
chỉ nghe tiếng nói. như từ giấc mơ naد
của ḍng sông. đă lăng quên
(Mùa cuối)
Đoạn 6. ÂM ĐIỆU
Tiếng Việt là một ngôn ngữ tự nó đă có âm điệu, 6 thanh tạo nên một thang âm trầm bổng. Cho nên bài thơ nào cũng có âm điệu, chỉ có vấn đề là hay hoặc dở. Âm điệu phụ họa được với ư thơ là hay, âm điệu trúc trắc là dở.
Người biết ngâm thơ có thể ngâm bất cứ bài thơ nào. Tuy nhiên, có những bài thơ chỉ để đọc hoặc chỉ nên đọc, chứ không ngâm bởi v́ âm điệu gần như văn nói. Thí dụ như một số bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nhất là trong tập "Tôi không c̣n cô độc". Hăy xem một bài :
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ thanh tâm tuyền
(Thanh Tâm Tuyền - Phục sinh)
Thơ Việt nam hay hơn thơ Tây phương về âm điệu, diễn ngâm không nhất thiết cần lấy giọng và làm điệu bộ như kịch sĩ, bài thơ hay tự nó đă chứa âm điệu phù hợp với nội dung. Những lời thơ trong Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm chẳng hạn, là chứng minh hùng hồn cho âm điệu tuyệt tác.
Thơ mới cũng không thiếu những âm điệu đủ mọi phong thái. Thí dụ :
Âm điệu hùng tráng :
Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy
Tiếng vang vang như thần kêu qủy hét,
Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét
Gọi qúa khứ vị lai những u hồn
Muôn ngh́n đời linh thiêng không sống chết
(Lư đông A - Chính khí Việt)
Âm điệu hào sảng, khí khái :
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
(Thâm Tâm - Tống biệt hành)
Âm điệu dồn dập :
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
...
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
(Tô thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)
Âm điệu tha thiết :
Hỡi Liên những Liên và Liên
Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh hỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu đường xó chợ...
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời t́m thấy)
Âm điệu trầm buồn, từ cao xuống thấp dần rồi nghẹn lại :
Bây giờ là mùa thu trời xuống thấp buồn vô cùng
(Thanh Tâm Tuyền - Khai từ một bản anh hùng ca)
Âm vận và ngữ âm là những yếu tố của âm điệu.
Âm vận gồm nhiều vần trắc có âm thái sắc cạnh có khả năng diễn tả những t́nh cảm mạnh. Thí dụ :
Một ngày lạnh nước người không tri kỷ
Ta vỗ án hét thành ca chính khí
Đông thê thê như gió thổi u hồn
Thấu buốt tận ḷng người trong cốt tủy.
(Lư đông A - Chính khí Việt)
Bài thơ có nhiều âm bằng cho âm điệu ngang ngang phù hợp với tâm trạng buồn bă, hoang mang, bàng hoàng... Thí dụ :
Sương lan mờ, bờ sông tường gần nhau
Sương lan mờ và hồn tôi nghe đau
(Xuân Diệu - Sương mờ)
Sài G̣n chiều nay trời c̣n mưa không em
Đường về h́nh như nhà ai đang lên đèn
Sầu tư nghe về ngh́n trùng trong tim
Trời c̣n mưa, mưa hoài, mưa trong đêm
(Huy Phương - Mưa chiều)
Phần lớn những bài thơ loại này có ư thơ sáo rỗng, gượng gạo, v́ cố t́m cho ra những âm bằng.
Sự thống nhất âm điệu
Thơ lục bát và thất ngôn có âm điệu trầm bổng đặc biệt. C̣n thơ tự do có âm điệu gần với văn nói hơn. Một câu thơ 6 chữ trong thể lục bát với một câu thơ 6 chữ trong thể tự do có âm điệu khác hẳn nhau. Khi ta làm thơ, chính âm điệu của câu thơ đầu tiên dẫn đến các câu sau theo một thể thơ nào đó.
Một số người cho rằng bài thơ không như bản nhạc, cần thống nhất âm điệu để có một âm hưởng thuần nhất. Do đó không nên xen lẫn hai thể thơ trong một bài, như chêm mấy câu lục bát hay thất ngôn trong một bài thơ tự do.
Phân biệt âm điệu và hơi thơ
Hơi thơ ví như khoảng cách giữa những dấu lặng hoặc chỗ ngân dài trong một bản nhạc. Hơi thơ góp phần thay đổi âm điệu, có thể là những chỗ xuống ḍng hay dấu chấm câu trong bài thơ. Cũng có khi một hơi thơ bao gồm cả mấy ḍng thơ, tùy theo ư thơ.
Thể thơ là yếu tố chính của hơi thơ. Thể thơ càng dùng câu thơ dài th́ hơi thơ càng dài. Hơi thơ ngắn dùng để diễn tả những âm thanh ngắn như lời tán thán, hô khởi, tiếng nức nở, nghẹn ngào, tiếng mưa rơi, vân vân. Hơi thơ dài dùng để diễn tả những t́nh ư tha thiết, lời kêu gọi hùng hồn, vân vân. Như đă nói trong thể thơ.
KẾT LUẬN
Ta có thể rút ra những yếu tố của một bài thơ hay theo thứ tự ưu tiên:
1. Ư mới, chi tiết mới.
2. Bút pháp chọn lọc.
3. Không dùng từ ngữ cũ. Từ ngữ mới càng hay.
4. Hợp vận.
5. Âm điệu và hơi thơ thích hợp.
6. Dàn ư hợp lư.
Ư thơ và bút pháp là những yếu tố quan trọng nhất.
Ư niệm "mới" hay "cũ" đề cập ở trên là dựa vào kinh nghiệm đọc thơ nhiều.
Đó là tiêu chuẩn xét một bài thơ hay về phương diện khách quan. Về phương diện chủ quan, đánh giá một bài thơ hay c̣n tùy thuộc tŕnh độ kiến thức của người đọc. Tốc độ cảm nhận thơ cũng vậy, nhưng nó c̣n tùy thuộc cả kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đọc thơ. Người có kiến thức rộng, người đă từng trải hoàn cảnh như trong bài thơ và người đọc thơ nhiều sẽ cảm nhận bài thơ mau chóng hơn những người khác.
Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để có thể đánh giá một bài thơ làbài thơ phải có thể hiểu được. Vâng, không hiểu th́ làm sao biết thơ hay ?
Nói cách khác, bài thơ phải tự giải thích được, không cần tác giả giảng nghĩa. Với những bài thơ khó hiểu, tác giả cần phải tự hỏi mục đích làm thơ của ḿnh là ǵ : để thưởng thức riêng ḿnh hay cho người khác cùng thưởng thức. Nếu có một vài người khác tự họ hiểu được bài thơ, th́ cũng coi như bài thơ có thể hiểu được. C̣n không ai có thể hiểu được th́ nhà thơ nên đặt lại vấn đề : có thể diễn tả một cách dễ hiểu hơn mà vẫn giữ được bản sắc kỹ thuật của ḿnh hay chăng ? Nếu không th́ tác gỉa sẽ muôn đời cô độc.
|
|
tuyetmai6604
member
REF: 468822
07/29/2009
|
Xưa rồi Diễm ơi !
Bác Nâu ơi ! Những sưu tầm của bác về phương pháp làm thơ đă quá lạc hậu rồi.
Thầy tṛ chuongvang-tamtho070 mới sáng tạo ra phương pháp mới mà ai cũng đều làm thơ được cả .Quá dễ để thành thi sĩ .Chả ai đọc bài của bác đâu .
HiiHiii
|
|
soluuhuong1
member
REF: 468835
07/29/2009
|
Xin chào các bạn,
Cảm ơn bạn mỗi ngày cùng chia sẻ
bao buồn vui chan chứa đẹp t́nh người
đón ngày mới cùng bạn ta yêu đời
yêu những vần thơ tươi đẹp tuyệt vời
Cảm ơn bạn Goldsnow142 đăng bài viết bổ ích cho mọi nguời
chúc bạn Goldsnow142, Tanhtanh5 và bạn Tuyetmai6604 vui nhiều
|
|
goldsnow142
member
REF: 472990
08/09/2009
|
I.Việc "phá cách" Thơ Lục Bát có từ bao giờ?
Người ta đă viết nhiều về Thơ Lục Bát, ở phạm vi bài này, chúng tôi không dám lạm bàn chi nhiều về Thơ mà lại bàn riêng về một vấn đề khác, thơ Đường hay Thơ Tàu th́ loại tam ngôn, tứ ngôn, lục ngôn, thất ngôn th́ đúng rồi? C̣n thể Thơ sáu tám (6-8) của nước ta tại sao? Không kêu là thơ Sáu Tám, mà lại kêu là thơ Lục Bát? Chúng ta là người Việt Nam trăm phần trăm, tuy có bị nhà Đường đô hộ, nhưng đa số chúng ta không nói được tiếng Tàu và rất ít người thời bấy giờ làm được thơ Tàu? Vậy tiền nhân của chúng ta tại sao không kêu thơ của chúng ta là thơ Sáu Tám (6-8) mà lại là Lục Bát? Và Thơ Lục Bát phá cách có từ bao giờ?
Năm 1958, ở miền Nam nước ta, xuất hiện một thi sĩ tên là Hà Liên Tử (mà theo nhà phê b́nh Lâm Vị Thủy lúc đó ở Tờ tạp chí Phổ Thông là một “Văn nghệ sĩ thanh niên hiện đại”. Ông cho xuất bản thi phẩm “Tiếng Bên Trời”; tôi không b́nh luận cuốn thơ này (không khen và cũng không dám chê) chỉ ghi lại phong cách làm thơ và cách dùng chữ của thi sĩ mà thôi. Thơ như sau:
Bỗng dưng
em khóc tôi cười
Chuyện mười năm cũ với người
hôm nay
(Bóng chiều xuân – Tiếng bên trời)
Men đời chuốc cạn đắng cay
Ưu tư liệm chết hồn trai giang hồ
Những là hoa bướm ngày xưa
Người em thơ mộng
ngày xưa...
hết rồi
Bỗng dưng
em khóc
tôi cười
Chia tay
Chẳng biết ai người khổ đau
(trích từ cuốn Thi nhân hiện đại tập 2 - Phạm Thanh)
Riêng bài thơ dưới đây, chúng tôi nhớ theo trí nhớ:
Mười năm xưa
mười năm sau
Một h́nh bóng cũ
xóa mầu thời gian
Cầm như
Đă lỗi nhịp đàn
cố nhân ơi
bấy ngỡ ngàng cố nhân
Mấy câu thơ của thi si Hà Liên Tử mang hơi hướng những câu thơ của Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh:
Nửa chừng xuân
thoắt
gẫy cành thiên hương
Bản Kiều thi chép liền một câu “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”.
Thơ chỉ có thế thôi, thế mà nhiều tranh căi, từ những tờ báo lá cải đến những tờ báo thời danh, báo nào cũng đua nhau “nện” cho thi sĩ Hà Liên Tử “vài trận đ̣n tơi bời hoa lá”. Người th́ lại lư do, bây giờ là trào lưu thơ tự do từ một chữ đến mấy chục chữ, nào thơ xuôi (poe`me en prose) nào là phá thể, nào là thi si Nguyễn Vỹ thời tiền chiến làm “thơ con ngan, con vịt” (con thiên nga, có hai chân th́ có sao đâu? Khi không mang thơ Lục Bát chặt khúc ra, không giống con giáp nào cả, “đập” là phải thôi, sau này th́ tôi mới nghiệm ra rằng: “Thiên hạ người ta quá đáng, nếu không nói là quá lời khi b́nh luận về thơ”
Thế là một chút thí nghiệm (và bước đầu là sự nghiệp của thi sĩ Hà Liên Tử) đến đó th́ tạm ngừng lại, và ngay từ lúc đó thể loại thơ Lục Bát “cắt vụn” tạm thời “phải (bị)” nối liền vào như cũ.
Tưởng thế chuyện thơ Lục Bát tạm ngừng ở đây. Nhưng không, vào năm 1960, tạp chí “Bách Khoa thời đại” ra một số dày gấp đôi, số này đặc biệt kỷ niệm 200 năm thi hào Nguyễn Du, đáng chú ư nhất là hai bài, một của Tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê (bài “Kiều chơi cây đàn ǵ?” và bài “Đĩa trà mai hạc của Nguyễn Du” (xin lỗi lâu quá quên mất tên tác giả). Điều đáng nói ở đây là bài “Đĩa trà Mai Hạc” nói đến sự kiện quan Đông các Đại học sĩ Nguyễn Du, đi sứ qua nhà Thanh mấy lần, lần nào cũng đến tận ḷ gốm để đặt một lúc mấy bộ ly trà và chén đĩa trên đồ gốm đồ sứ có vẽ phong cảnh, chim muông hoa lá. Tranh vẽ trên sứ có nhiều loại, nhiều bức của những họa gia nổi danh, tuy nhiên bức tranh nào mà có nhiều thi gia nổi tiếng đề thơ lên bức tranh th́ giá trị bức tranh càng lên cao, những thi gia đề thơ trước, đa số tranh c̣n khoảng trống, nên dễ đề thơ, các thi gia đề thơ về sau, th́ vướng phải mỏm núi, ngọn cây, thành ra có câu dài câu ngắn, ví dụ:
Nghêu ngao
vui
thú yên
hà
Mai là bạn
cũ hạc
là người
quen.
Hai câu Lục Bát này là của cụ Nguyễn Du:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người quen.
Nếu đề thơ sau những người khác th́ không c̣n chỗ, đành phải nâng lên kéo xuống, đếm chữ chia câu, mới biết thơ thuộc thể loại thơ ǵ? Hai câu thơ lục bát của Nguyễn Du được viết trên chén là bị chặt khúc ra “v́ vướng vào cành trúc”
Xin trích dẫn một số câu thơ của thi sĩ Trần Vấn Lệ để minh họa như một điển h́nh của của loại thơ Lục bát “cắt rời”
Gửi em
một đóa hoa hồng
Chiều xuân sang hạ
em bồng đi chơi
Bồng hoa
có tưởng bồng người
Bồng theo với nhé
một thời tương tư
(Trích thi tập “Gửi em một đóa hoa hồng)
Sáng nay trời lạnh quá chừng
Lạnh như thể chưa từng lạnh hơn
Lạnh và buồn
lạnh cô đơn
Lạnh không gió quyện
lạnh sương không mù
(Một chữ lạnh)
Hai tay em
lướt phím đàn
Hai tay em
đuổi trăng vàng đi đâu?
Phải chi nước đứng
chân cầu
Hai tay em giữ
hoài câu thơ t́nh
(Bàn tay kỷ niệm)
Thơ của thi sĩ Trần Vấn Vệ là như vậy, muốn ngắn cứ ngắn, muốn dài cứ dài, tuy nhiên câu sáu chữ và câu tám chữ tổng cộng là mười bốn chữ. Cắt ra cũng ở trong 14 chữ mà thôi, chứ cắt lung tung, thêm thừa th́ không c̣n là Thơ Lục Bát nữa.
Như vậy, từ năm 1958 - đánh dấu bằng sự phá cách thơ Lục Bát của thi sĩ Hà Liên Tử sau đó đă có không biết bao nhiêu thi sĩ làm thơ Lục Bát cũng 'phá cách', và bao nhiêu “cái bát” được h́nh thành với nhiều kiểu dáng, sắc màu...
Ngày nay, nhiều tác giả trẻ khi làm thơ Lục Bát cũng cố t́nh 'phá cách' bằng cách 'cắt rời - chặt khúc', hay tŕnh bày so le, xuống ḍng tuỳ hứng. Họ tưởng làm vậy là chứng tỏ ḿnh hiện đại, là đổi mới thơ. Nhưng họ lại không biết rằng việc đó cũng đă cũ và xưa lắm rồi.
Rơ ràng, cái h́nh thức của thơ không quan trọng, cái cần là cốt lơi cơ. Và cái cốt lơi, theo người viết bài này, dù là Sáu – Tám hay Lục Bát th́ vẫn là thơ của người Việt, không phải xuất xứ từ chữ Hán, cũng không phải từ chữ Hán Nôm mà là một thể thơ thuần chữ Việt hoàn toàn. Hai từ Lục Bát là chữ Việt Mường (sau là chữ Việt Nôm) hoàn toàn không phải từ Hán Nôm, và hoàn toàn không phải chữ Hán mà thuần chữ Việt
Theo tác giả Chu Vương Miện
(Nguồn: Vantuyen.net)
II.Vần Lục Bát và khuôn âm nên như thế nào?
Nhân việc có nhiều tác giả gửi bài cho lucbat.com chưa chú ư đến vần của thơ Lục Bát và BBT c̣n để “lọt lưới” một số bài như thế, với khả năng hiểu biết hạn hẹp của ḿnh, chúng tôi xin có mấy lời tham gia trên cơ sở luật vần thơ lục bát, để bảo tồn truyền thống và phát triển thơ lục bát đúng và ngày càng hay hơn.
Để dễ dàng bàn về luật gieo vần thơ lục bát, có lẽ nên đọc lại đoạn trích T́m hiểu thơ Lục bát - thể thơ đặc thù dân tộc (Phần I) của tác giả Nguyễn Ngọc Bảo (Trích tập san Trại Hè Lên Đường 2000).
Trong tiếng Việt, những tiếng có vần với nhau là những tiếng không những cùng một thanh “bằng hoặc trắc” mà c̣n phải có âm hoặc hoàn toàn hợp nhau, hoặc tương tự nhau. Có hai loại vần là “vần chính” gọi là “vần giầu” hoặc “vần sát” và “vần thông” c̣n gọi là “vần nghèo” hoặc “vần gượng”.
Vần chính: Những tiếng cùng một khuôn âm như “ba” với “bà”; “thương” với “trường”; “đời” với “trời” các âm bằng hoặc “chính” với “tĩnh”; “sợ” và “vợ” các âm trắc v.v.. Thí dụ như những câu thơ sau của Nguyễn Bính:
Láng giềng đă đỏ đèn dầu
Đợi em ăn dập miếng trầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngơ, vội vàng chi anh...
Hai chữ “dầu” và “trầu” cùng vần chính. Ba chữ “sang”, “làng”, và “vàng” cũng cùng vần chính.
Vần thông: Những tiếng hợp nhau về thanh nhưng chỉ tương tự với nhau về âm như “Binh” với “Banh”, “Bang” với “Bương”, 'nâng' với 'trăng' các âm bằng hoặc 'lụt' với 'mục' âm trắc, v.v... Thí dụ như hai câu ca dao sau:
Hôm qua tát nước đầu đ́nh
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được th́ cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà...
Hai chữ “đ́nh” và “cành” hợp vần thông với nhau. Hai chữ “sen” và “xin” cũng hợp vần thông….”
Trở lại bài 1: Ư kiến của BBT trực về bài thơ “Ngh́n năm lục bát vẫn xanh” của tác giả NDX tôi thấy nhận xét phần lớn là đúng. Nhưng c̣n đôi ba chỗ phải bàn lại. Những câu sau đúng luật vần thông
Câu:
T́m trong gió mát, trăng thanh
Câu ḥ, điệu ví bồng bềnh sông xa...
Là đúng luật vần thông: anh & ênh
Câu 240 và 241 Truyện Kiều cũng có:
Nách tường bóng liễu bay ngang trước mành
Hiên tà gác bóng chênh chênh
Câu:
Ngày đông giá rét kéo dài
Con trâu chậm bước, chân người dại tê...
Là đúng luật vần thông ai & ơi
Câu 1631-1632 Truyện Kiều cũng có:
Tóc thề đă chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắt son ?
Bài 2 có câu: Ban Mê chẳng phải núi cao
Nhà lầu san sát thi nhau đổi đời
Đúng luật vần thông ao & au
Câu 1130-1131 Truyện Kiều:
Làm chi dày tía, ṿ hồng, lắm nao
Một đoàn đổ đến trước sau
Bài 2 câu:
Sợ rồi mai nữa về quê
Thèm nghe hương lúa thầm th́ hát ru.
Đúng luật vần thông ê & i
Câu 132-133 Truyện Kiều cũng có:
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi
Dùng dằng nửa ở nửa về
… Một vài dẫn chứng thêm trong truyện Kiều :
Vần thông ai & ơi:
Câu 1639 - 1640:
Nén hương đến trước Thiên đài
Nỗi ḷng khấn chửa cạn lời vân vân
Vần thông uôn & on:
Câu 167 - 168:
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa người c̣n ghé reo.
Vần thông eo & iêu.
Câu 169 -170:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Vần thông anh & inh:
Câu 58 - 59:
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Rằng sao trong tiết thanh minh…
Vần thông ưa & ơ.
Câu 119 -120:
Một lời nói chửa kịp thưa
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay
Vần thông ay & ây.
Câu 121 - 122:
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
…
Trên đây chỉ là một vài ví dụ những câu gieo vần thông của Truyện Kiều, kinh điển mực thước không ǵ thay đổi được. Nó là tài hoa biến hóa vô cùng mà cụ Nguyễn Tiên Điền đă tiếp thu trong hồn ca dao dân tộc. Di sản văn hóa đó các thế hệ đời sau được tận hưởng thiết tưởng thừa kế và phát huy đúng đắn để khỏi phụ ḷng tiền nhân.
Với mong muốn tất cả chúng ta con cháu dân Việt nhiều đời giữ ǵn vẻ đẹp trong sáng, muôn màu của hồn thơ đất nước, hy vọng những người sáng tác thơ lục bát cũng có thể tham khảo thêm, rút ra được điều ǵ đó cho riêng ḿnh.
Trần Quang Liên
(CLB Lucbat.com Xứ Đoài)
III.Vần và nhịp trong thơ ca Việt Nam và Lục Bát (07/08/2009)
I. VẦN
Thơ ca Trung Quốc, tất cả vần được qui định thành 106 bộ. Một bài thơ đă gieo vần ở bộ nào th́ chỉ được lấy vần ở bộ ấy, không được lấy sang bộ khác.
Thơ ca tiếng Việt không có một qui định vần bộ nào. Từ nào có quan hệ với Trung Quốc th́ có thể phỏng theo, c̣n những từ thuần Việt th́ theo qui luật âm thanh của tiếng Việt. Bởi vậy, vần chính trong một bài thơ Việt là do người làm thơ chọn lấy, coi như là vần chủ. Vần chủ đó có thể ghép với những vần đọc với giọng na ná, gọi là vần thông.
Các nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (Thơ ca Việt Nam h́nh thức và thể loại) đă tóm tắt qui luật về vần như sau:
1. Về thanh bằng thông với nhau
- Nếu cùng một thanh th́ phụ âm đầu phải khác nhau (trừ trường hợp khi dùng một từ mà nghĩa khác nhau).
- Nếu khác thanh, th́ phụ âm đầu có thể giống nhau.
2. Về âm của vần
2.1. Vần chính
- Phải có âm giống nhau
- Phụ âm cuối (nếu có) phải giống nhau (Theo qui luật của thanh ở trên.)
- Phụ âm đầu (nếu có) phải khác nhau
Ví dụ: *Trường, dương, vương
* ang, hoang, trang
* càng, văng, láng, trang
2.2. Vần thông
- Có âm na ná như nhau
- Phụ âm cuối (nếu có) có thể hơi khác nhau (Theo qui luật của thanh ở trên. (tức na ná như nhau)
- Phụ âm đầu (nếu có) có thể giống nhau
Ví dụ: * trong, tong, tùng, tuồng
* an, ăn, lâng
* quen, quên, in, yên
Ngoài ra c̣n có vần ép: độ ḥa âm cực ḱ cưỡng ép. Nhưng trong thực tế vẫn được các nhà thơ sử dụng.
3. Thể thơ lục bát
Niêm luật của thể thơ lục bát khá giản dị, có thể tóm tắt theo hai hệ thống như sau:
3.1. Hệ thống phổ biến
Vần bằng (tiếng thứ 6 câu sáu, tiếng thứ 6 và thứ 8 câu tám)
1
2
3
4
5
6
7
8
Lục
-
bằng
-
trắc
-
bằng
Bát
-
bằng
-
trắc
-
bằng
-
bằng
Các tiếng thứ 4, thứ 6, thứ 8 nhất thiết phải theo trắc bằng cố định; riêng tiếng thứ 2 có thể linh động bằng hay trắc.
Ví dụ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng lịch cũng thể con người thượng kinh
(Ca dao)
3.2. Hệ thống đặc biệt
Có hai điểm khác với hệ thống trên
- Vần trắc. Ví dụ:
Ṭ ṿ mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
(Ca dao)
- Vần lưng gieo ở từ thứ 4 câu bát. Ví dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
(Ca dao)
3.3. Cũng như các thể thơ khác, thơ lục bát cũng sử dụng 3 loại vần trên. Những bậc thầy về thơ ca lục bát như Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy cũng có lúc sử dụng vần thông. Chẳng hạn:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đ̣i một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng năo nhân.
(Truyện Kiều)
Do đó, những ư kiến cho thơ lục bát đăng tải trên Lucbat.com chưa chuẩn về vần điệu là không thỏa đáng. Những ví dụ mà tác giả lấy ra làm dẫn dụ hoặc là vần không nằm ở tiếng thứ 6 mà nằm ở tiếng thứ 5 theo lối phá cách (“Nhân tài nguyên khí quốc gia”/ Lời tiền nhân chính là lời nước non) hoặc theo vần thông (một trong hai loại vần phổ biến trong thơ ca Việt Nam nói chung, thơ lục bát nói riêng).
II. NHỊP ĐIỆU
Khái niệm nhịp điệu
“Nhịp điệu là yếu tố tổ chức biểu đạt nghệ thuật thuộc các chủng loại khác nhau mà trong nghệ thuật thính giác như âm nhạc, thơ ca… thể hiện tiêu biểu” (Nguyễn Thái Hoà, Từ điển tu từ- phong cách- thi pháp học).
Khác với vần, tuy quan trọng nhưng không bắt buộc phải có trong mọi bài thơ, nhất là thơ tự do; c̣n sự tồn tại của nhịp lại mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Mọi bài thơ đều phải có nhịp. Không có nhịp chưa tạo thành thơ. Nhà thơ Sóng Hồng đă nhấn mạnh đến vai tṛ của nhịp khi cho rằng: “Vần hay không tôi cho là thứ yếu/ Âm thanh không réo rắt đố thành thơ”. TS. Phan Huy Dũng cũng khẳng định: “Cũng như nhiều loại nghệ thuật thời gian, thơ trữ t́nh bao giờ cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu. Bởi không có nhịp điệu, người đọc không thể nhận thức nổi, nhận thức đúng về nội dung của chuỗi âm thanh, chuỗi ngôn từ phát ra tưởng chừng vô tận theo thời gian. Nhờ nhịp điệu mà chuỗi ngôn từ tưởng như bất định kia được cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ thuật, có khả năng gây xúc động ḷng người…” (Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội-1999).
Nói một cách khái quát, nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quăng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.
2. Các dấu hiệu h́nh thức của nhịp điệu thơ
Ngoài những dấu hiệu cú pháp như dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu chấm, dấu hai chấm… xuất hiện trên ḍng thơ, câu thơ, người phân tích nhịp thơ c̣n phải chú ư các dấu hiệu h́nh thức sau:
2.1. Chỗ ngừng, chỗ ngắt được phân bố trong ḍng thơ, câu thơ, khổ thơ
Những điểm ngắt, điểm ngừng đă phân chia chuỗi ngôn từ ra thành từng nhóm âm tiết, thành ḍng, thành câu, thành khổ, thành đoạn - tức là những chỉnh thể của văn bản thơ. V́ thế, người đọc thơ phải nắm vững kỹ thuật tạo nhịp trong từng thể thơ để ngắt nhịp cho đúng.
Trong các thể thơ cách luật, điểm ngắt, điểm ngừng thường được bố trí vào các vị trí cố định và xuất hiện đều đặn theo chu kỳ.
Thơ Đường luật thường ngắt theo nhịp 4/3. Ví dụ:
Ao thu lạnh lẽo/ nước trong veo
Một chiếc thuyền câu/ bé tẻo teo.
(Mùa thu câu cá- Nguyễn Khuyến)
Thơ lục bát chủ yếu ngắt theo nhịp chẵn 2/4 (2/2/2, 4/2); 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2, 4/2/2). Ví dụ:
Trời mưa ướt bụi/ ướt bờ,
Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em.
(Ca dao)
Này chồng/ này mẹ/ này cha,
Này là em ruột/ này là em dâu.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng khác thường, bất định… th́ có thể chuyển sang nhịp thơ lẻ 3/3, 1/5, 3/5… Ví dụ:
Người quốc sắc/ kẻ thiên tài
T́nh trong như đă/ mặt ngoài c̣n e.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Buồng không/ lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa/ đă rêu lờ mờ xanh.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thơ thất ngôn lục bát, ở câu lục bát, nhịp điệu như thể lục bát; c̣n ở câu thất ngôn thường có nhịp 3/4 hoặc 3/2/2. Ví dụ:
Thuở trời đất/ nổi cơn gió bụi
Khách má hồng/ nhiều nỗi truân chuyên.
(Chinh phụ ngâm - bản dịch của Đoàn Thị Điểm)
Bến Tầm Dương/ canh khuya/ đưa khách
Quạnh hơi thu/ lau lách/ đ́u hiu.
( Tỳ bà hành - bản dịch của Phan Huy Vịnh)
Trong thơ tự do, điểm ngắt, điểm ngừng được phân bố linh hoạt, phóng khoáng không tuân theo khuôn khổ nào. Người phân tích nhịp điệu thơ phải dựa vào ư nghĩa ngôn từ và ḍng chảy cảm xúc của nhà thơ để xác định điểm ngừng, điểm ngắt mà ngắt nhịp cho đúng. Ví dụ:
Đêm lạnh/ càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước/ lạnh/ trời ơi!
(Nguyệt Cầm - Xuân Diệu)
Người ra đi/ đầu không ngoảnh lại
Sau lưng/ thềm nắng/ lá rơi đầy.
(Đất nước - Nguyễn Đ́nh Thi)
2.2. Vần
Chỗ ngừng, chỗ ngắt có liên quan hoặc không liên quan đến sự tồn tại của vần nhưng mỗi khi chỗ ngừng, chỗ ngắt nhờ vần bao giờ cũng có một vị trí nổi bật. Nhờ vần, những chỗ ngừng, chỗ ngắt trở nên sắc nét hơn. Ví dụ:
Tôi lại về/ quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa/ nắng dài băi cát…
(Mẹ Tơm - Tố Hữu)
Câu thứ 2 ngắt nhịp sau âm tiết “trưa” - một âm tiết mang vần. Với vần “ưa” được gieo vào vị trí bất ngờ (tiếng thứ 3 của câu thơ), nhịp thơ được cảm nhận một cách rơ ràng, có thể đưa đến ấn tượng về một sắc nắng vừa chói chang, vừa dịu dàng (do âm sắc trung hoà của vần “ưa” gợi ra). Tiếp đó, nhờ chỗ ngắt, từ “dài” nằm trong nhịp sau bỗng nhiên mang đầy cảm giác do nó được kéo dài ra. Theo liên tưởng tự nhiên, trước mắt người đọc bỗng hiện lên một băi cát trải dài, lấp lánh dưới ánh nắng vàng tươi.
Trong thơ tự do số lượng âm tiết trong từng ḍng thường không cố định, đơn vị nhịp điệu có thể dài ngắn khác nhau; không thể ngừng nhịp theo mô h́nh có sẵn như trong thơ cách luật. Do đó, trong nhiều trường hợp vần trở thành một tiêu chí rất quan trọng giúp người đọc ngừng nhịp đúng chỗ. Ví dụ:
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tṛn thương tiếc chiếc khăn tay…
(Tống biệt hành - Thâm Tâm)
2.3. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trong thơ c̣n là những chỗ nhấn do trọng âm của từ qui định (đối với ngôn ngữ có trọng âm như tiếng Nga) hay do thanh điệu, do âm sắc nổi bật của âm tiết nào đó trong mối tương quan với những âm tiết khác (như tiếng Việt). Những “điểm nhấn” không chỉ liên quan tới vài từ cá biệt trong câu thơ như từ láy, từ địa phương, từ Hán Việt, từ diễn tả âm thanh, màu sắc, động tác… mà c̣n gắn rất chặt với h́nh thức điệp từ, điệp ngữ lan từ ḍng thơ, câu thơ sang đoạn thơ. V́ thế, khi phân tích nhịp điệu bài thơ, chúng ta phải lưu ư tới những “điểm nhấn” bởi đó là một trong những dấu hiệu h́nh thức tạo nên nhịp điệu thơ.
Ví dụ 1: Nhịp điệu câu thơ: Lác đác bên sông/chợ mấy nhà (Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan) được cảm nhận vừa qua h́nh thức ngắt nhịp 4/3 mang tính qui phạm của thơ Đường vừa qua nghệ thuật đảo ngữ mạnh mẽ và qua âm điệu nổi bật của từ láy “lác đác”. Đồng thời các yếu tố trên lại c̣n hỗ trợ cho nhau v́ một nhịp điệu chung. Chẳng hạn, sự kết hợp giữa cú pháp đảo ngữ với âm điệu của từ láy làm cho câu thơ càng thêm nổi bật, gây ấn tượng về sự thưa vắng đối với người đọc.
Ví dụ 2: Trong khổ thơ
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây…
(Mùa xuân chín - Hàn Mạc Tử)
Những từ láy “vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thĩ”; những từ chỉ tính chất “ư vị”, “thơ ngây” khi đọc bất giác chúng ta phải nhấn mạnh do chính đặc trưng âm thanh và ư nghĩa của chúng đưa lại.
2.4. Đơn vị cơ bản để khảo sát nhịp của một bài thơ là câu thơ hoặc khổ thơ. Trong thơ cổ, mỗi câu thơ là một đơn vị cơ bản để khảo sát v́ mỗi câu thơ thường có tính chất độc lập tương đối. C̣n trong thơ hiện đại, có khi đơn vị cấu tạo cơ sở của nó không phải là câu mà là khổ thơ. Cho nên khi phân tích nhịp điệu của thơ hiện đại chúng ta nhiều khi phải dựa vào ư nghĩa ngôn từ cả khổ thơ. Ví dụ: Cả khổ thơ
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.
(Huyền diệu - Xuân Diệu)
là một câu thơ chỉ cái ngây ngất, chuếnh choáng do khúc nhạc thơm tạo nên. Cho nên phải lấy đơn vị đoạn để phân tích nhịp điệu các ḍng thơ trên.
Trên đây là những dấu hiệu h́nh thức của nhịp điệu thơ trữ t́nh mà chúng ta thường gặp khi phân tích nhịp điệu thơ. Người đọc thơ, phân tích thơ phải nắm vững th́ mới có thể truyền được đầy đủ cảm xúc của nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm.
Tác giả Nguyễn Công Thanh
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|