giathanh
member
ID 45333
09/04/2008
|
THƠ ĐƯỜNG, THƠ LỤC BÁT, THƠ TỰ DO: - ĐỌC VÀ VIẾT (1)
Giathanh có đọc bài viết của JK về Thơ Đường. Trong đó có nói về NIÊM, LUẬT, VẦN trong thơ. giathanh nhận thấy thế này:
Trên NCD, hầu hết các thành viên đều làm thơ theo dạng thơ tự do (thơ mới). Ít người đi sâu vào các NIÊM, LUẬT, và giathanh nhận ra là có rất nhiều người có những câu thơ, ư thơ rất hay.!
Thực tế, các bài thơ trên NCD, rất nhiều người có các câu thơ làm theo dạng thơ Đường. V́ thơ Đường, có thể nói là dạng thơ rất phong phú và dễ làm so với các thể thơ khác. Nhưng dễ nhất vẫn là làm theo dạng thơ mà các nhà ngiên cứu gọi là "thơ cổ phong" - không ràng buộc về LUẬT thơ. Ngay cả trong lúc thơ Đường luật đă ra đời và phát triển mạnh th́ phong cách thơ này vẫn phát triển rất mạnh. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc khá sâu, nên thơ Đường gần như song hành và ḥa lẫn trong thơ Việt từ xưa tới nay.
Quay lại riêng thể thơ Đường. giathanh trước đây vốn rất ngưỡng mộ Lư Thái Bạch, thi nhân nổi tiếng của thơ ĐƯỜNG. Nhân đây xin đăng bài viết này, góp nhặt và bổ xung (chỉ chút ít các chú giải) thêm từ một bài viết của tác giả Lương Duy Thứ mà giathanh thấy là phân tích về thơ Đường trong nội dung nói về thơ của Lư Thái Bạch, rất sâu sắc và chuẩn xác dưới đây. Nhằm cùng chia sẻ, trao đổi cùng với các thành viên NCD về những NIÊM, LUẬT, VẦN trong thơ Đường. Sau đó, sẽ là các dạng thơ khác.
CÁC THỂ THƠ ĐƯỜNG
..........
Thơ cổ phong (hay cổ thể).
Cổ phong là lối thơ có từ những triều đại trước. Trong thơ cổ phong, người ta chia ra hai loại cho dễ nhớ: thơ cổ phong năm lời (ngũ ngôn) và bảy lời (thất ngôn).
Thơ cổ phong khác với thơ luật ở chỗ thơ chỉ cần vần chứ không cần phải theo luật bằng, trắc. Khác với thơ luật, thơ cổ phong có thể dài ngắn khác nhau, có loại bài ngắn (đoản thiên), và bài dài (trường thiên). Giống với cách làm thơ tự do mà ta thường dùng.
Số câu trong cổ phong cũng không quy định cụ thể. Đoản thiên có thể bốn câu, sáu câu, tám câu hoặc trên mười câu... Trường thiên là những bài thơ dài, nghiêng về trần thuật, hoặc biểu cảm liên tục trước một đề tài không dứt, do đó cũng cần phải có từng phần, mạch lạc, có cấu trúc hợp lư...
Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn. Có thể là bài thơ chỉ dùng một vần (độc vận) trong cả bài. Cũng có thể thay nhiều vần (hoán vận) trong lúc viết (Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Vần bằng và vần trắc cũng có thể dùng riêng từng loại hay cả hai.
Về lời trong câu th́ được phép dài, ngắn khác nhau không phải nhất thiết năm hay bảy chữ (Tương Tiến Tửu của Lư Bạch)...
Trong ngũ ngôn trường thiên có bốn điều cốt yếu được các nhà thơ hay vận dụng, gọi là thủ pháp chung cũng được. Đó là:
Phân mạch: chia đoạn, chia tiết, chia câu trong bài.
Quá mạch: chuyển tiếp các ư của phần đầu.
Hồi chiếu: biểu hiện những tứ lạ, ư hay đă róng lên ở các phần trên, phát triển cho sâu sắc.
Tán thán: những ư nghĩ, suy tưởng, cảm nhận xen cài vào các đoạn trên.
Thất ngôn cổ phong th́ các mạch đoạn cho rơ ràng, ư nghĩa càng thâm trầm, cao thoát. Nhiều ư vị ngoài bài thơ th́ càng hay. So với thơ luật, thơ cổ phong phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong niêm luật, câu chữ. Chính v́ vậy mà tính hàm súc, cô đọng, những khe khắt đ̣i hỏi về đối ngẫu, luật thơ, âm nhạc không tập trung như thơ luật. Vả lại, thể cổ phong vốn cũng đă có từ các thời Hán, Tùy, trước, nên về sau lối thơ luật thịnh hành hơn cả...
II. Thơ luật
Thơ luật có từ thời nhà Đường nên cũng gọi là Đường Luật. Luật dựa trên những thanh bằng và thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau, tạo thành cấu trúc bắt buộc của bài thơ.Thơ luật gồm tám câu, cấu trúc quy định như sau:
Phá: Câu mở đầu (cũng gọi là Phá đề)
Thừa: Nhân ư câu phá mà chuyển tiếp
Thực: Gồm hai câu 3, 4 phải đối nhau từng lời và ư, nói rơ chủ đề của bài thơ.
Luận: Gồm hai câu 5, 6 cũng theo luật đối lời đối ư của các câu thực, nhằm tăng ư chính của bài.
Kết: hai câu cuối cùng, chuyến ư và thâu tóm ư tưởng của bài thơ hoặc có một tứ lạ gây thêm cảm xúc cho người đọc.
Giống như viết một bài văn, có mở bài (mở đề), thân bài (giải quyết vấn đề) và kết luận (đúc rút nội dung, nêu cảm nhận) vậy.
Thơ luật có thể năm lời (ngũ ngôn) và thể bảy lời (thất ngôn)
* Ví dụ thơ thể ngũ ngôn:
TỐNG HỮU NHÂN
Thanh sơn hoành Bắc quách,
Bạch thuỷ nhiễu Đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lư chinh.
Phù vân du tử ư,
Lạc nhật cố nhân t́nh.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mă minh.
(Lư Bạch)
TIỄN BẠN
Chạy dài cơi Bắc non xanh,
Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau.
Nước non này chỗ đưa nhau,
Một xa, muôn dặm biết đâu cánh bồng!
Chia phôi khác cả mối long,
Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.
Vẫy tay thôi đă rời xa,
Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.
(TẢN ĐÀ dịch)
* Ví dụ thể thất ngôn:
THU HỨNG
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Đỗ Phủ)
HỨNG THU
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn ḷng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm ḍng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối t́nh nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.
(NGUYỄN CÔNG TRỨ dịch)
III. Thơ tuyệt cú:
Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câu. Là một thể thơ bốn câu, có thể là cổ phong hoặc thơ luật, nhưng ư tứ, ư nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có kết, có thể hiện nội dung chủ đề ḿnh định nói. Chẳng hạn như bài Tự Quân Chi Xuất Hỹ của Trương Cửu Linh:
TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ
Tự quân chi xuất hĩ
Bất phục lư tàn ky.
Tư quân như nguyệt măn,
Dạ dạ giảm thanh huy.
TỪ THUỞ CHÀNG ĐI
Từ ngày chàng bước chân đi,
Cái khung dệt cửi chưa hề dúng (nhúng) tay.
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.
(NGÔ TẤT TỐ dịch)
Bài thơ nói được cái t́nh của người vợ mà lối ví von, h́nh ảnh vừa đẹp, vừa sâu sắc. Lời, kết cấu, ư tứ thật trọn vẹn, súc tích.
Thơ tuyệt cú làm hay, thật khó. Nhưng trong thơ Đường, nhiều bài thơ tuyệt cú đă vượt được thử thách, lưu truyền hang nǵn năm, tính tư tưởng cao, h́nh ảnh đẹp và măi măi là những viên ngọc sáng giá.
Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng răi hơn, các câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ư tứ sâu sắc, lời đẹp, giầu âm điệu...
Thơ tuyệt cú có bốn câu, do đó cũng gọi là tứ tuyệt. Thơ tuyệt cú đẹp như hoa một bông trên cành thắm, có thể nói trực diện, hoặc nói xa xôi mà ư tứ lại thâm trầm, đều được cả.
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Trương Kế)
Như vậy: Các lối viết theo dạng thơ TỨ TUYỆT, NGŨ CÚ, THẤT CÚ, BÁT CÚ,.V.V. là chỉ cách xắp vần, hành câu trong Thơ Đường chứ không phải là THỂ của thơ ĐƯỜNG LUẬT. Khi dịch hoặc chuyển thể thơ Đường, người dịch chú trọng Ư của lời thơ sao cho đầy đủ chứ không nhất thiết phải lặp lại đúng niêm. luật trong bài dịch.
Thân ái! Chúc mọi người có thêm một bài THƠ ĐƯỜNG LUẬT hay của riêng ḿnh và chia sẻ cùng mọi người cảm xúc của ḿnh bằng thơ ĐƯỜNG.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
giathanh
member
REF: 388149
09/05/2008
|
ĐỌC THƠ ĐƯỜNG
Bài của Tôn Thất Uẩn
(với sự cộng tác của nhà thơ Hoài Châu)
Ngày xưa ở nước ta, những vị sính thơ đều thích đọc thơ Đường mà các cụ cho là hay hơn cả trong nền thi ca Hán văn. Ngày nay, muốn biết cái hay, cái đẹp của Đường thi, phần đông chúng ta phải t́m qua những bài dịch; cũng may, nhờ các bản dịch có giá trị của Phan Huy Vịnh, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Nhượng Tống, Nam Trân v.v... và trội hơn hết là gần trăm bài dịch của Tản Đà, chúng ta cũng có thể biết được thế nào là cái thú đọc thơ Đường.
Không phải ngẫu nhiên mà thi ca đă đạt được thành tựu rưc rỡ nhất trong văn học đời Đường mà đó là nhờ ở tác dụng của những điều kiện lịch sử, kinh tế, xă hội vào thời ấy. Lịch sử phát triển của thi ca đời Đường được chia làm bốn thời kỳ: Sơ, Thịnh, Trung và Văn Đường. Thời kỳ Sơ-Thịnh, chính trị ổn định và xă hội phồn vinh đă thúc đẩy sự phát triển và truyền bá các thể loại văn học -- đặc biệt là thơ -- đồng thời kích động hứng sáng tạo của các nhà thơ. Mặt khác, t́nh h́nh xă hội rối ren vào cuối Thịnh Đường và nhất là Trung-Văn Đường khiến các nhà thơ chú tâm vào t́nh trạng xă hội và cuộc sống; chiến tranh triền miên làm cho dân chúng phải lâm vào cảnh điêu linh, khốn khổ, do đó, chiến tranh và hậu quả của nó đă trở thành một trong những đề tài chủ yếu và loại thơ tự sự, trước ít được chuộng, nhờ vậy đă phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Trên phương diện thượng tầng kiến trúc, có nhiều điều ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của văn học nói chung và thơ nói riêng. Ở đời Đường, Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo đều hưng thịnh; dù đôi khi có sự thay đổi về thứ bậc tùy sở thích của các bậc vua chúa, tuyệt không có sự bài xích lẫn nhau là “dị giáo” giữa các tín đồ của tam giáo. Nhờ vậy, nếp suy nghĩ của các nhà thơ, các sĩ phu được cởi mở, không bị câu thúc bởi những giáo điều cứng nhắc. Và do đó, thơ đời Đường đă có cùng lúc một “thánh thơ” Đỗ Phủ, một “tiên thơ” Lư Bạch, một “phật thơ” Vương Duy. Một điều nữa là vào đời Đường, thơ đă chiếm một địa vị quan trọng trong chế độ thi cử để chọn quan chức, do đó, đă có một cao trào học tập sáng tác thơ trong hàng ngũ sĩ tử khiến cho thơ ngày càng phát triển. Sau hết, thơ Đường c̣n được thừa hưởng cả một quá tŕnh phát triển lâu dài của ngành thơ Trung Hoa. Tinh thần của Kinh Thi, Khuất Nguyên, của thơ nhạc phủ, ... phong cách của dân ca Nam và Bắc triều, những lư luận, cách thẩm định thơ của Chung Vinh, Lưu Hiệp, ... đều được các nhà thơ, các nhà lư luận đời Đường kế thừa một cách linh động và sáng tạo.
Tuy nhiên, nói về sự thành tựu của thơ Đường mà không nhắc đến vai tṛ của các đại thi hào như Lư Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Bạch Cư Dị v.v... th́ quả có điều thiếu sót. Những ǵ được tŕnh bày trên đây là những yếu tố ảnh hưởng tốt đẹp đến sự phát triển của thơ Đường.
Nhưng đưa thơ Đường lên đến tuyệt đỉnh đó chính là nhờ ở sự đóng góp của từng cá nhân các vị kể trên. Sở dĩ như vậy v́ họ có tư tưởng phóng khoáng, chân trời kiến thức rộng mở và khi cần, có thể vượt khỏi lối suy nghĩ, cách nh́n thường hữu để t́m những hướng đi mới, những nguồn cảm hứng mới khiến cho vườn thơ đời Đường luôn luôn có thêm kỳ hoa dị thảo. Điển h́nh là nhà thơ Lư Bạch. Nhiều người cho ràng tư tưởng chủ đạo của ông là Đạo giáo; nhưng có người cho đó là tư tưởng Nho giáo; người khác lại cho là tư tưởng Pháp gia và cũng có người cho là tư tưởng Phật giáo (lư do là những bài thơ nhuốm mùi thiền của Lư Bạch c̣n nhiều hơn của Vương Duy). Nói cách khác, tài năng của Lư Bạch đa diện, diện nào cũng đặc sắc, độc đáo như nhau, không ai sánh kịp. Cho nên, câu nói “Lư Bạch chính là Lư Bạch” của một học giả đă được nhiều người tán đồng. Vị thứ hai là “thi thánh” Đỗ Phủ, người mà Nguyễn Du đă từng tôn xưng là bậc “Thiên cổ văn chương thiên cổ sự”. Cho đến cuối thời kỳ Thịnh Đường thơ Đỗ Phủ, sáng tác trong hoàn cảnh một xă hội phồn vinh, phần lớn mang tính chất phóng khoáng, tươi sáng và lạc quan. Nhưng bắt đầu từ thời kỳ Trung Đường, xă hội rối ren, nhân dân điêu linh khốn khổ khiến các nhà thơ, vốn giàu t́nh cảm, không thể không chú ư đến cuộc sống của người dân. Đây chính là cơ hội để Đỗ Phủ đưa tự sự, thời sự và nghị luận vào thơ -- đặc biệt là thơ tứ tuyệt.
Với tinh thần ấy, Đỗ Phủ đă viết những vần thơ đầy nhiệt huyết để nói lên nỗi khổ của người dân. Thơ Đỗ Phủ, sáng tác trong thời kỳ này, đă đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong quá tŕnh phát triển thơ Đường. Thơ Đường đạt tới đỉnh cao trong ngành thơ là nhờ ở những tài năng xuất chúng như Lư Bạch, Đỗ Phủ v.v...; giả thử không có họ th́ chắc ǵ thơ Đường đă trội hơn cả trong toàn bộ thi ca Hán văn.
Thơ Đường có một sắc thái đặc thù, đó là mối quan hệ giữa thơ và các ngành nghệ thuật khác. Vào thời đó, các ngành nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo, hội họa, thư pháp (nghệ thuật viết chữ), v.v... đă rất phát triển và chắc hẳn đều có tác dụng nâng cao khiếu thẩm mỹ của các nhà thơ. Đặc biệt có mối quan hệ khăng khít giữa hội họa và thi ca. Nhiều nhà thơ cũng đồng thời là họa sĩ, chẳng hạn như thi hào Vương Duy; nhiều bức họa của ông -- nhất là họa phá mặc sơn thủy -- đến nay vẫn c̣n được truyền tụng. Nói về Vương Duy, Tô Đông Pha, một danh sĩ đời Tống, đă có câu “thi trung hữu họa, họa trung hữu thi” ( trong thơ có họa, trong họa có thơ). Cũng do mối quan hệ đó mà hội họa c̣n có tên gọi là “vô thanh thi” (thơ không tiếng).
Một bước tiến quan trọng trong quá tŕnh phát triển của thơ Đường là sự xuất hiện của thể thơ “thất ngôn luật thi”. Thể luật thi là thể thơ bó buộc về niêm luật, âm vận và cả cách đối ngẫu nữa bằng những qui tắc phức tạp, câu thúc nhà thơ khi sáng tác. Nhưng thi nhân đời Đường đă vận dụng những qui tắc ấy một cách tài t́nh để tạo ra những vần thơ tuyệt diệu. Ngay chỉ riêng với thể thơ thất ngôn luật thi, đời Đường cũng đă tạo nên một thời đại thi ca sáng chói trong lịch sử văn chương Trung Hoa. Thơ thất ngôn luật thi chiếm đa số trong hàng trăm ngh́n bài thơ của hàng ngh́n thi nhân được ghi trong bộ Toàn Đường thi. Và, như chúng ta đều biết, thể thơ này được du nhập vào Việt Nam và đă ngự trị trong một thời gian dài trong mọi sinh hoạt văn học, trong khoa cử, lúc giao du, khi thù tạc, xướng họa, chắp chữ gieo vần.
Phần trên đây nhằm đưa ra một cái nh́n tổng quát về thơ Đường, đồng thời nhấn mạnh về số lượng thơ và thi nhân để các bạn có thể h́nh dung được sự khó khăn của người làm công việc tuyển dịch, một việc mà anh bạn Nguyễn Công Thuần của chúng ta đă giao phó cho tôi “để có bài đưa vào Bản Tin THĐL” năm nay. Ḷng kính mến của tôi đối với các bạn không cho phép tôi “chọn đại” một ít bài thơ của các đại thi hào để các bạn giải trí trong chốc lát. Tôi muốn làm một cái ǵ có đôi chút ư nghĩa. Để có thể đạt mục đích ấy, tôi đă giới hạn sự chọn lựa vào một số ít đề tài và một thể thơ nhất định.
Đề tài th́ không ǵ khác hơn là những đề tài thường gặp trong các bài đăng trên Bản Tin, tức là t́nh quê hương, t́nh bạn, làng xưa lối cũ ... Những đề tài này cũng thường thấy trong thơ Đường.
Vào đời Đường, chiến tranh đă buộc hàng vạn trai tráng phải sung quân đánh giặc hoặc đồn trú nơi biên cương tít mù xa thẳm. Trong số những quan chức phục vụ ở hậu phương, có người v́ phạm lỗi hoặc làm phật ḷng cấp trên thường bị biếm (giáng chức) và đổi đến những địa phương xa xôi diệu vợi. Vợ con họ không thể theo cùng, đành phải ở lại quê nhà, sống bơ vơ trong niềm thương nỗi nhớ. Cái cảnh “tương tư đôi chốn, t́nh ngàn dặm” này đươc Lư Bạch cô đọng bằng hai câu thơ trong bài “Xuân Tứ”: “Đương quân hoài qui nhật; thị thiếp đoạn trường th́” [Trong lúc chàng nghĩ đến ngày về; ấy là lúc thiếp (đau đớn đến) đứt ruột (v́ thương nhớ)]. T́nh quê hương cũng là một đề tài quen thuộc trong thơ Đường. Nhà thơ Cô Huống biểu lộ nỗi nhớ quê bằng một hành động đầy ư nghĩa: “Du du Nam quốc ti; dạ hướng Giang Nam bạc” [Nhớ về nước Nam xa vời vợi; (nên) đêm thuyền đỗ quay đầu về Giang Nam].
Trước đây, khi chưa ly hương, chúng ta cũng đă đọc những vần thơ này và cảm thấy bùi ngùi cho số phận những người trong cuộc. Có ai ngờ, một thời gian sau, chúng ta đă sống lại cái tâm trạng của người xưa, phải sống xa quê hương, ṃn mỏi trong nỗi vắng thiếu những người, những cảnh thân quen không c̣n nữa; nỗi ḷng của người thiếu phụ xa chồng trong thơ phải chăng cũng là nỗi ḷng của hiền nội chúng ta khi chúng ta đă phải đi “học tập cải tạo” hoặc “vượt biên" một ḿnh. Đến bây giờ, chúng ta mới thấy được thi ca là mối dây đằm thắm giữa nhà thơ và người đọc. Nhà thơ tả cảnh: cảnh ấy vẽ ra trước mắt người đọc; nhà thơ tả t́nh: t́nh ấy là t́nh của người đọc. Chính sự truyền cảm mănh liệt ấy tạo nên nguồn sống và giá trị của bài thơ. Chúng ta đồng cảnh ngộ với nhà thơ, nên hơn ai hết chúng ta rất dễ cảm ứng với thi nhân. Cách xa họ hàng bao nhiêu thế kỷ, chúng ta vẫn cảm thấy xúc động mạnh mẽ để ḷng ḿnh ḥa nhịp với tâm hồn nhà thơ.
Bằng vào những đề tài nói trên, tôi đă chọn lấy 25 bài: 8 bài về t́nh quê hương, 3 bài về t́nh nhà, 6 bài về ngày trở lại cố quận, 4 bài về t́nh bạn và 4 bài về tâm sự người chinh phụ. Tuy nhiên những bài này được tŕnh bày theo thứ tự Sơ, Thịnh, Trung, Văn Đường để các bạn khỏi phải nhàm chán v́ đọc măi một đề tài.
Về thể thơ, sự chọn lựa có phần khó khăn hơn v́ mọi thể thơ đều đặc sắc với đầy đủ các đề tài gợi hứng cho thi nhân. Như nhiều người trong các bạn đă biết, thơ Đường gồm có 3 thể thơ: cổ phong, luật thi (bát cú và trường luật) và tứ tuyệt (c̣n gọi là tuyệt cú). Luật thi bị trói buộc trong những khung cảnh chật hẹp, những luật lệ nghiêm khắc và tuy các thi hào đời Đường đă sử dụng những qui tắc phức tạp ấy một cách sáng tạo, đôi khi họ cũng phải “vi luật”. Riêng tôi, mặc dù thơ thất ngôn luật thi chiếm đa số trong toàn bộ thơ Đường và bài thơ được rất nhiều người công nhận là hay nhất là bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (hay Hạo) cũng là một bài thất ngôn luật thi, tôi vẫn thấy có một cái ǵ không được tự nhiên trong thể thơ ấy -- nhất là các bài thơ trữ t́nh -- và đôi khi, tôi không khỏi có cảm tưởng là những bài thơ ấy “tựa như những đồ chơi bằng ngọc, bằng ngà, chạm trổ rất tinh xảo, trau giồi bóng lộn” (Trần Trọng Kim -- “Đường Thi”) hơn là mối dây truyền cảm giữa nhà thơ và người đọc.
Thơ cổ phong và thơ tứ tuyệt thể hiện sự dung ḥa giữa thể thơ buông thả không vần không điệu và thể thơ luật trói buộc, tù túng. Thơ cổ phong thích hợp hơn thơ tú tuyệt nếu dùng vào việc tường thuật một sự việc có đầu đuôi, đầy đủ t́nh tiết, hoặc miêu tả một quang cảnh rộng lớn hay một tâm trạng có quá tŕnh diễn biến phức tạp v́ không bị hạn định về số câu, số chữ. Thơ tứ tuyệt, trái lại, có tính cách cô đọng, súc tích hơn. H́nh thức của nó là h́nh thức nhỏ bé (chỉ 4 câu). So với các loại thi ca trên thế giới, trừ trường hợp cá biệt, nó chỉ dài hơn thơ haiku Nhật bản trên dưới một câu (tùy theo thất ngôn hay ngũ ngôn). Tuy nhỏ bé, thơ tứ tuyệt có thể đề cập đến nhiều vấn đề một cách sinh động, độc đáo nhất là với chủ trương đưa tự sự và nghị luận vào thơ của Đỗ Phủ. Hai câu thơ sau đây trong bài tứ tuyệt Kỷ Hợi tuế của Táo Tùng cũng hùng hồn không kém ǵ những bài thơ chống chiến tranh theo thể khác, kể cả bài thơ cổ phong nổi tiếng B́nh xa hành của Đỗ Phủ: “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự; nhất tướng công thành vạn cốt khô” ( Bạn đừng bàn chuyện phong hầu nữa; một tướng công thành, vạn xác khô). Theo cụ Trần Trọng Kim, thơ tứ tuyệt (tuyệt cú) có đặc điểm như sau: “Thơ tuyệt cú lấy lời nói gần mà t́nh xa, hàm súc, không lộ làm quí.”
Nói cách khác, là dùng lối nói gián tiếp; mà lối gián tiếp lại rất thích hợp với thơ Đường là thơ của các mối quan hệ -- đặc biệt là quan hệ giữa t́nh, ư và cảnh. Người đọc thơ phải lưu ư phát hiện cho ra những mối quan hệ và ư nghĩa của các mối quan hệ này. Theo Văn Nhất Đa, một nhà thơ kiêm nhà lư luận nổi tiếng thời cận đại th́ tứ tuyệt là “h́nh thức tốt nhất của thơ trữ t́nh”. Thơ trữ t́nh phải cô đọng và những bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng nhất đă thể hiện một cách tuyệt diệu vẻ đẹp cô đọng ấy.
Sau hết, tưởng cũng nên nói sơ qua về thi pháp tứ tuyệt. Với thơ tứ tuyệt, trong đa số các trường hợp, câu thứ ba là câu “bản lề”.
Dương Tài đời Nguyên có nói: “Câu hết mà ư chưa hết, phần lớn là do biết lấy câu thứ ba làm chủ c̣n câu thứ tư là chỉ phát triển tiếp. Uyển chuyển biến hóa, công phu là ở câu thứ ba, nếu ở đây chuyển được tốt th́ câu thứ tư cứ như thuyền thuận trôi theo ḍng vậy”.
Sự phân biệt trên đây giữa hai thể thơ cổ phong và tứ tuyệt chỉ có tính cách đại khái, c̣n muốn dùng để chọn thể thơ nào hầu đưa vào bài viết này th́ lại không áp dụng được. Bản Tin THĐL chú trọng về t́nh nghĩa và kỷ niệm, mà thơ cổ phong th́ không thiếu ǵ những bài thơ về loại này. Một trong những bài hay nhất -- nếu không nói là bài hay nhất -- theo thể cổ phong là bài Xuân Tư [“xuân tư”: nhớ (nhân) xuân (về); cũng có người hiểu là “xuân tứ”: ư xuân] của Lư Bạch đă nêu ở trên; hai câu cuối của bài này “Xuân phong bất tương thức; hà sự nhập la vi “ [Gió xuân không cùng nhau quen biết; (th́) việc ǵ (lại) xông vào màn là (của thiếp)] đă gợi hứng cho nhiều thi sĩ về sau ở Trung Hoa cũng như ở các nước khác; ở Việt Nam, có Tản Đà và Hàn Mặc Tử. Lẽ ra th́ phải chọn cả hai thể thơ, nhưng làm vậy bài này sẽ quá dài đối với khuôn khổ của Bản Tin THĐL, do đó phải chọn một: những bài thơ dưới đây đều thuộc thể tứ tuyệt (ngũ ngôn hay thất ngôn). Mà cũng v́ phải giới hạn chủ đề, thể thơ và số trang, rất nhiều nhà thơ có danh tiếng lại không được đề cập đến.
V́ vậy, khó có thể nói các bài thơ được tuyển dịch dưới đây tiêu biểu cho toàn bộ thể thơ tứ tuyệt đời Đường mà chỉ nên coi đó như những tỉ dụ nhằm cung cấp một ư niệm về vườn thơ tứ tuyệt muôn màu muôn sắc của thời ấy.
Về công việc dịch thơ, với cái vốn chữ Hán quá ít ỏi, tôi tự thấy không làm nổi, nhất là khi cụ Trần Trọng Kim đă nói: “Dịch thơ nọ ra thơ kia, khó nhất là đừng bỏ sót những ư nghĩa cốt yếu và đừng làm mất cái thần câu thơ trong nguyên văn” (TTK -- sđd). Thế cho nên tôi đă nhờ người bạn là nhà văn kiêm nhà thơ Hoài Châu làm hộ.
Ông Hoài Châu, ngoài những bài viết và thơ đăng trên các tạp chí Việt và Anh, c̣n là tác giả của một công tŕnh tuyển dịch thơ Hán văn từ đời Đường, qua các đời Tống, Nguyên, Minh đến đời Thanh (sắp xuất bản).
Tất cả các bài thơ được tuyển dịch dưới đây đều gồm có các phần như sau:
- Bài thơ chữ Hán
- Phần phiên âm Hán-Việt
- Bản dịch theo nguyên thể (nhằm thể hiện cái khí thơ của tác giả)
- Bản dịch theo thể lục bát (gần tâm hồn người Việt hơn)
Trong số các bài thơ chữ Hán, có xen một vài bài viết tay theo lối “chân” và “thảo” cho thêm phần cổ kính.
V́ không phải là người chuyên nghiên cứu thơ Đường nên chắc hẳn bài viết không khỏi có những chỗ sai lầm, thiếu sót, mong các bạn lượng t́nh. Bây giờ, xin mời các bạn thưởng ngoạn một vài bông hoa đẹp của vườn thơ tứ tuyệt đời Đường.
Tôn Thất Uẩn
HẠ TRI CHƯƠNG
Hồi Hương Ngẫu Thư 1 Về Quê Ngẫu Viết 1
Dịch nguyên thể:
Tuổi trẻ xa nhà, già trở lại
Giọng quê không đổi, tóc mai gầy;
Nhi đồng nay gặp, không quen biết
Cười hỏi: "Từ đâu khách đến đây?"
Dịch thể lục bát:
Thiếu tiểu ly gia lăo đại hồi Trở về quê lúc tuổi già
Hương âm vô cải mấn mao thôi Hương âm chẳng đổi tóc thưa mái đầu.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức Trẻ rằng: "Ông đến từ đâu?"
Tiếu vấn khách ṭng hà xứ lai ? Hỏi như hỏi kẻ chưa hầu biết quen.
Hồi Hương Ngẫu Thư 2 Về Quê Ngẫu Viết 2
Dịch nguyên thể:
Xa cách quê hương đă bấy chầy
Việc đời ngẫm lại lắm chua cay
Chỉ riêng hồ nước ngoài khung cửa
Sóng vẫn như xưa lớp lớp bày.
Dịch thể lục bát:
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa Quê nhà xa cách bao năm
Cận lai nhân sự bán tiêu ma Việc đời gạn lại nửa gần tiêu vong.
Duy hữu môn tiền Kính Hồ thủy Chỉ riêng hồ nước ngoài song
Xuân phong bất cải cựu thời ba Như xưa dưới ngọc xuân phong gợn hoài.
TRƯƠNG CỬU LINH
Tự Quân Chi Xuất Hĩ Từ Buổi Chàng Ra Đi
Dịch nguyên thể:
Chàng ra đi bấy chầy
Cửi canh mặc nhện vầy
Đêm lại đêm ṃn mỏi
Nhớ chàng như trăng đầy
Dịch thể lục bát:
Tự quân chi xuất hĩ Từ chàng cất bước lên đường
Bất phục lư tàn ky Cửi canh thiếp bỏ cho màng nhện giăng.
Tư quân như nguyệt măn Nhớ chàng như ánh trăng rằm
Dạ dạ giảm thanh huy Đêm đêm ánh sáng giảm dần quang huy.
VƯƠNG DUY
Tạp Thi Thơ Vặt
Dịch nguyên thể:
Bạn từ cố hương lại
Chuyện quê hương hẳn rơ
Trước song thêu ngày ấy
Mai cành hoa đă nở?
Dịch thể lục bát:
Quân tự cố hương lai Anh vừa từ biệt quê hương
Ưng tri cố hương sự Chuyện quê anh hẳn tỏ tường hơn ai.
Lai nhật ỷ song tiền Cửa buồng thêu đó cành mai
Hàn mai trước hoa vị? Trời đêm lạnh lẽo hoa th́ nở chưa?
Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ngày Trùng Cửu
Ức Sơn Đông Huynh Đệ Nhớ Anh Em Ở Sơn Đông
Dịch nguyên thể:
Một thân làm khách trọ xa quê
Giai tiết càng thêm nỗi nhớ nhà
Trèo núi anh em giờ vẫn biết
Chỉ riêng vắng mặt có ḿnh ta.
Dịch thể lục bát:
Độc tại dị hương vi dị khách Một thân làm khách xa quê
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân Gặp khi trời đẹp nhớ nhà khôn nguôi.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ Anh em trèo núi dạo chơi
Biến tháp thù du, thiểu nhất nhân ... Thù du cành bẻ một người thiếu thôi.
Chú thích: Thù du là thứ cây có hoa đẹp. Ở Sơn Đông, tết Trùng Dương có tục mọi người leo núi bẻ một cành thù cài đầu lấy "khước" ... Tác giả bài thơ xa nhà, nghĩ lúc anh em họp mặt đông đủ, chỉ thiếu một người là ḿnh, mà buồn!
LƯ BẠCH
Tĩnh Dạ Tư Đêm Yên Tĩnh Suy Nghĩ
Dịch nguyên thể:
Trước giường trăng sáng gương
Ngờ đất phủ màn sương
Ngẩng đầu nh́n trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Dịch thể lục bát:
Sàng tiền minh nguyệt quang Trước giường trăng sáng như gương
Nghi thị địa thượng sương Ngờ trên mặt đất màn sương phủ mờ.
Cử đầu vọng minh nguyệt Ngửng đầu trăng sáng như thơ
Đê đầu tư cố hương Cố hương ta những hồn mơ cúi đầu.
Ức Đông Sơn Nhớ Đông Sơn
Dịch nguyên thể:
Đông sơn cách biệt măi
Tường vi nở mấy thời.
Mây trắng bay tản mát
Nhà ai trăng sáng rơi.
Dịch thể lục bát:
Bất hướng Đông Sơn cửu Đông sơn xa cách lâu rồi
Tường vi kỷ độ hoa Tường vi nay đă mấy thời nở hoa.
Bạch vân hoàn tự tán Tan tác mây trắng trời xa
Minh nguyệt lạc thùy gia? Nhẹ nhàng trăng sáng bên nhà ai rơi.
CAO THÍÏCH
Trừ Da Tác Viết Đêm Giao Thừa
Dịch nguyên thể:
Đèn lạnh pḥng khuê sầu lẻ bóng
V́ đâu thao thức măi thâu đêm.
Mơ hoài quê cũ xa ngàn dặm
Lại một năm về tóc bạc thêm.
Dịch thể lục bát:
Lữ quán hàn đăng độc bất miên Đèn mờ lữ quán đơn côi
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên V́ đâu dạ khách rối bời ḷng thơ.
Cố hương kim dạ tư thiên lư Nhớ quê muôn dặm xa mờ
Sương mấn minh triêu hựu nhất niên Năm về thêm để bạc phơ mái đầu.
ĐỖ PHỦ
Tuyệt Cú Tuyệt Cú
Dịch nguyên thể:
Nước biếc chim thêm trắng
Nước xanh hoa tươi sao.
Xuân này thôi đă quá
Quê cũ về năm nao.
Dịch thể lục bát:
Giang bích điểu du bạch Non xanh thêm vẻ hoa tươi
Sơn thanh hoa dục nhiên Cánh chim thêm trắng trắng ngời non xanh.
Kim xuân khan hựu quá Lựu hoa đă nở trên cành
Hà nhật thị qui niên? Ngày về quê cũ biết đành năm nao?
SẦM THAM
Đề B́nh Dương Quận Đề Cây Liễu Ở Bên Cầu Sông Phần
Phần Kiều Biên Liễu Thụ Quận B́nh Dương
Dịch nguyên thể:
Đất này ta từng ở
Về như về cố hương
Sông Phần ôi khóm liễu
Tương kiến đầy luyến thương.
Dịch thể lục bát:
Thử địa tằng cư trú Nơi này ta ở năm xưa
Kim niên uyển tự qui Năm nay trở lại quê nhà khác chi.
Khả liên Phần thượng liễu Sông Phần thương liễu trên đê
Tương kiến dă y y Người quen tương kiến trăm bề luyến thương.
Kiến Vị Thủy Tư Tần Xuyên Thấy Vị Thủy Nhớ Tần Xuyên
Dịch nguyên thể:
Sông Vị về đông chảy
Ngày nào tới châu Ung
Đôi ḍng lệ xin nhớ
Vườn cũ cho gửi chung.
Dịch thể lục bát:
Vị Thủy đông lưu khứ Rạt rào sông Vị về đông
Hà thời đáo Ung Châu Bao giờ cảnh trí châu Ung tới gần
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ Hai hàng lệ chảy phân vân
Kư hướng cố viên lưu Vườn xưa xin gửi t́nh thâm tới cùng.
Phùng Nhập Kinh Sứ Gặp Sứ Vào Kinh
Dịch nguyên thể:
Phía đông vườn cũ đường xa tắp
Tay áo luôn luôn gạït lệ tràn
Trên ngựa trùng phùng không giấy bút
Nhờ anh nhắn hộ vẫn b́nh an.
Dịch thể lục bát:
Cố viên đông vọng lộ man man Phía đông vườn cũ đường xa
Song tụ long trung lệ bất can Aùo tay luôn gạït lệ sa nhạt nḥa.
Mă thượng tương phùng vô chỉ bút Trên yên bút giấy không mà
Bằng quân truyền ngữ báo b́nh an Nhờ anh tin nhắn về nhà b́nh an.
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|