Vietnam Single Tim Ban Bon Phuong  


HOME  -  FORUM  -  REGISTER  -  MY ACCOUNT  -  NEW  PHOTOS  -  BROWSE  -  SEARCH  -  POEM  -  ECARD  -  FAQ  -  NCTT  -  CONTACT



Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ư mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ư

 
NCTT Những chủ đề mới nhất

NCTT Những góp ư mới nhất
NCTT Website


Who is Online
 

 

Forum > Việt ngữ, lịch sử, văn hóa >> Đôi nét về TTKh (ST)

 Bấm vào đây để góp ư kiến

Trang nhat

 goldsnow142
 member

 ID 52166
 05/18/2009



Đôi nét về TTKh (ST)
profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email -goi thu   Thong bao bai viet spam den webmaster  edit -sua doi, thay doi edit -sua doi, thay doi  post reply - goy y kien


Đi t́m tác giả bí ẩn T.T.Kh

T.T.Kh là một câu chuyện chưa từng có trong lịch sử văn chương. Đó là câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên tung lên thi đàn mấy bài thơ t́nh tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến mất trong cái bàng hoàng sửng sốt của người yêu thơ.

Bảy mươi năm đă trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất nhiều người đă t́m cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu như chưa ai làm thỏa măn độc giả. C̣n người yêu thơ vẫn luôn khát khao được biết sự thật: T.T.Kh là ai và đă v́ ai mà sáng tác nên những áng thơ t́nh đặc sắc đó?

Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là T.T.Kh. Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những "nghi can" có hai nhà thơ nổi tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Độc giả tưởng như đă lần ra được tung tích của con người kỳ lạ này nhưng sự thực không phải như vậy. Bởi tất cả những thông tin đưa ra đều do lời người khác kể lại. C̣n bản thân những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao giờ có phát biểu chính thức nhận ḿnh là T.T.Kh. V́ thế, tuy người kể cũng là người có uy tín trong làng văn làng báo nhưng độc giả vẫn thấy mơ hồ khó tin. Việc t́m kiếm con người thật của T.T.Kh thành ra vẫn rơi vào ṿng lẩn quẩn trong bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại.

Bằng cách phân tích các h́nh ảnh, biểu tượng, t́nh tiết văn học, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn..., tác giả Trần Đ́nh Thu đưa ra một cách làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho là T.T.Kh lâu nay để nhận xét xem ai là người phù hợp nhất. Đó là cách làm khá đặc biệt so với những nhà sưu tầm khác trước đây chỉ hoàn toàn dựa vào lời kể của nhân chứng. V́ thế, Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài viết trích từ bản thảo cuốn sách Giải mă nghi án văn học T.T.Kh chưa xuất bản của tác giả để bạn đọc tham khảo.

1. Câu chuyện t́nh buồn 70 năm trước

Có thể nhiều bạn đọc đă biết, đă thuộc làu thơ T.T.Kh nhưng vẫn có một số người khác chưa nắm rơ câu chuyện như thế nào. V́ thế, trước khi bước vào phân tích lư giải, chúng tôi xin dẫn lại toàn bộ câu chuyện này một cách có hệ thống. Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu. Nội dung truyện ngắn được tóm tắt như sau:

Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi t́m cảnh vẽ, chàng đă gặp một thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra mê người đẹp, luôn đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.

Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán được giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở một vùng nọ. Trong một bữa tiệc chiêu đăi, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ. Chàng ngờ ngợ như đă từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra, nàng chính là cô gái hái hoa ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc nhiên.

Nàng kể chuyện cuộc đời ḿnh cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng môn đăng hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới chỗ họa sĩ trọ để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện ǵ đến đă đến. Một buổi sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh núi, chàng đă tỏ nỗi ḷng ḿnh. Nàng đáp lại t́nh yêu của chàng.

Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời. Chàng về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc th́ nhận được thư nàng vào giờ chót. Nàng từ chối chuyến đi v́ không đủ can đảm vượt qua. Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Chàng nh́n những nụ hoa h́nh quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ hôn lên những cánh hoa và khóc.

Bốn năm sau, một hôm chàng nh́n thấy trên bàn ḿnh một phong thư viền đen. Mở ra xem th́ đó là của người chồng nàng báo tin nàng đă chết. Chàng đáp xe lửa đến nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó, chàng luôn mua hoa ti gôn về đặt trong pḥng ḿnh.

Hoa ti gôn là một truyện ngắn không có ǵ đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng. Truyện kư thác một tâm sự khắc khoải, nhớ nhung hoài niệm. H́nh ảnh dây hoa ti gôn được lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn khơi gợi một điều ǵ đó không tiện nói ra. Tác giả của nó - nhà văn Thanh Châu, khi đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa quyết định bước vào nghiệp văn chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện t́nh buồn.

Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc biệt xảy ra. Vào tháng 9/1937, ṭa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ của một tác giả kư tên là T.T.Kh. Đó là bài Hai sắc hoa ti gôn, được đăng vào ngày 23/9/1937.

Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đă gây nên xúc động lớn trong ḷng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng sau, ṭa soạn lại nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng trên số báo ngày 20/11/1937. Và một năm sau nữa, ṭa soạn nhận thêm bài Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số báo ra ngày 30/10/1938.

Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không c̣n nhận thêm bài thơ nào của con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng kư tên T.T.Kh gửi đến một tờ báo khác. Đó là Bài thơ đan áo.

Những bài thơ mang tên T.T.Kh đă làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt. Nhưng tác giả của nó đă lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở đâu nữa. Không ai biết một chút ǵ về con người bí ẩn này. Nghi án văn học T.T.Kh từ đó bắt đầu...

Năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu tiên, T.T.Kh đă được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó, nhiều người lại liên tục công bố những thông tin về T.T.Kh. Nào Thâm Tâm, nào Nguyễn Bính, nào em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị Khánh... Rất nhiều "ứng viên".

Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đă viết một bài dài trên Tạp chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà ḿnh uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện t́nh của ḿnh. Thâm Tâm cho biết, người yêu của ḿnh là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đă có lần gợi ư Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có ǵ. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đă bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại c̣n bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. V́ thế đă phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, kư tên T.T.Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ư để các bạn của ḿnh tin là của Khánh làm, cho khỏi mang tiếng bị t́nh phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới ṭa soạn. Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn kư là T.T.Kh...

Ngược với Nguyễn Vỹ th́ một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại cho rằng chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đă sáng tác ra những bài thơ kư tên T.T.Kh. Một số tác giả khác c̣n tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa khi cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của nhà thơ Tế Hanh...

Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp của Thâm Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác giả Nguyễn Bính để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.

2.T.T.Kh. có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính ?

Trước hết, chúng ta hăy t́m hiểu xem liệu có thể tin rằng T.T.Kh là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính như một số tác giả đă khẳng định hay không.

Tác giả Hoài Việt, một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với hai thi sĩ này cho biết: Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu. Ba người tuổi tác xấp xỉ nhau, đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành nhiều ở các trường lớp chính quy, v́ thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có ǵ. Ngược lại họ là những người được học nhiều chữ Hán, chữ Nôm. Cả ba người có lúc cùng ở trọ một nhà với nhau để viết văn, làm báo. Những hoàn cảnh như trên đă ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của nhau, h́nh thành nên một nhóm thơ có tên gọi như trên.

Ngoài những nét riêng biệt trong các tác phẩm của từng người th́ nhóm thơ này có một đặc điểm chung. Đó là các thành viên rất thích cái giọng văn chương hiệp sĩ, ưa dùng h́nh ảnh những tráng sĩ lên đường thời Xuân Thu Chiến Quốc. Những tráng sĩ mặc áo bào từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất, buộc ngựa vào gốc liễu, nghênh ngang bước vào tửu quán. V́ thế mà thơ của họ chứa đựng cái chất tráng ca, cái khí phách ngang tàng của những trang hảo hớn: "Chí lớn chưa về bàn tay không/Th́ không bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong" (thơ Thâm Tâm), "Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ ǵ áp Tiết thiên văn tự/Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây" (thơ Nguyễn Bính).

Nhận định của Hoài Việt như thế rất đúng với trường hợp của Thâm Tâm. Chất giọng văn chương hiệp sĩ của ông tạo nên nét riêng biệt không ai có được. Thơ ông là thứ thơ hùng tráng. Nếu có bi th́ cũng là hùng bi: "Ngươi chẳng thấy/Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/Nước mạnh như thác, một con thuyền/Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!" (Can trường hành), "Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề"" (Vọng nhân hành). Chất rắn rỏi này không chỉ thể hiện trong những bài thơ thuộc thể hành mà cả khi Thâm Tâm làm những loại thơ khác.

Với Nguyễn Bính, ngoài cái phần chung với nhóm thơ trên mà ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của bạn bè, thể hiện trong vài trường hợp (chẳng hạn bài Hành phương Nam) th́ thơ Nguyễn Bính được bao trùm bởi cái chất quê, như Hoài Thanh nhận định trong Thi nhân Việt Nam: "Ở Nguyễn Bính th́ không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn c̣n giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm". Thơ Nguyễn Bính phần lớn gần gũi với đời sống lam lũ quê mùa dù ông đang ở thành thị hay thôn quê. Từ ngữ nhiều khi quá dân dă đến nỗi một số nhà thơ thời ấy chê là ông làm ḥ vè: "Nuôi hai con lợn từ ngày xưa/Mẹ tôi đă tính "Tết th́ vừa"/Trữ gạo nếp thơm mo gói bó/Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ" (Tết của mẹ tôi). Ngay cả khi làm thơ t́nh th́ Nguyễn Bính cũng quê mùa chất phác như thế: "Ḷng em như quán bán hàng/Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi/Ḷng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều" (Em với anh). Cái chất dân dă quê mùa, pha lẫn với một ít chất tráng ca, có lẽ ảnh hưởng từ Thâm Tâm, đă tạo nên một Nguyễn Bính khó có thể lẫn vào ai.

Đó là những nét đặc thù trong thơ Thâm Tâm và Nguyễn Bính, hai tác giả được nhiều người coi là T.T.Kh. Vậy c̣n thơ T.T.Kh th́ sao? Ta hăy đọc lại vài khổ thơ của tác giả này: "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ t́nh ta cũng vỡ thôi" (Hai sắc hoa ti gôn), "Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ/Một mùa thu cũ một ḷng đau/Ba năm ví biết anh c̣n nhớ/Em đă câm lời có nói đâu" (Bài thơ cuối cùng).

Bạn đọc thấy ǵ trong những câu thơ này? Rơ ràng đây là những câu thơ nỗi ḷng của một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn có lẽ quen sống trong cảnh mơ màng, không vướng bận chuyện đời thường. Nàng thích nh́n gió ngắm trăng mỗi khi cô đơn trong ḷng. Nàng lại đọc tiểu thuyết mỗi khi buồn: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa". Gia cảnh của nàng rơ ràng là khá giả. Không phải thuộc loại "Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều/Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều" như Nguyễn Bính hay "Sinh ta, cha ném bút rồi/Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân" như Thâm Tâm.

Ta lướt qua những bài thơ của T.T.Kh và thấy, tác giả là người có thói quen sử dụng từ ngữ hiện đại. Có lẽ tác giả được đi học trường Tây chứ không phải đi học trường làng. Ta không t́m thấy những từ ngữ làng quê hay từ ngữ có nguồn gốc Hán-Việt nhiều ở đây. Vả lại những câu thơ như câu "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui" quá là hiện đại. T́nh yêu trong thơ Thâm Tâm hoặc thơ Nguyễn Bính đâu có như thế.

Ta cần nhớ rằng vào khoảng thời kỳ 1932-1938, văn xuôi cũng như thơ Việt Nam c̣n đang cố gắng t́m một sự thay đổi căn bản. Về thơ, đó là sự thay thế thể thơ Đường luật g̣ bó bằng thể thơ tự do, tức thơ mới. Đến năm 1936, cuộc cách mạng này coi như thành công mỹ măn. Tuy nhiên có sự phân hóa. Một số tác giả muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn h́nh thức trong khi số khác lại không muốn bị "Tây hóa" quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới chỉ h́nh thức thôi. Xuất hiện một lớp nhà thơ "tân" bên cạnh những nhà thơ "cựu" vốn ít học chữ Tây. Văn chương của hai tầng lớp này có một sự khác biệt rất dễ nhận ra. Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của sự ảnh hưởng thơ Pháp th́ Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường c̣n Nguyễn Bính th́ ch́m đắm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên ḍng thơ Việt.

C̣n thơ T.T.Kh? Ngay cả Hoài Thanh vào năm 1942 cũng đă rất ngập ngừng không dám xếp hẳn thơ T.T.Kh vào ḍng thơ Việt. Cho nên, giữa thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và T.T.Kh không thể nào chung trong một ḍng thơ được. Thâm Tâm và Nguyễn Bính "cựu" quá trong khi T.T.Kh th́ lại rất "tân".

3.T.T.Kh. là "nàng" hay "chàng" ?

Ta đă t́m hiểu qua về thơ T.T.Kh trong kỳ trước. Thật ra, ta thấy thơ T.T.Kh nghiêng về ḍng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đă khơi nguồn và Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn: "Hơn một loài hoa đă rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh/Những luồng run rẩy rung rinh lá.../Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu); "Ở lại vườn Thanh có một ḿnh/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T.T.Kh).

Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt bên cạnh thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính: "Thu sang trên những cành bàng/Chỉ c̣n hai chiếc lá vàng mà thôi/Hôm qua đă rụng một rồi/Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính), "Bừng sáng, xuân bay tang tảng sương/Canh gà heo hút nẻo giang thôn/Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc/Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).

Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến h́nh ảnh. Nhà văn Thanh Châu đă bỏ công t́m hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi đến nhận xét: thơ T.T.Kh không có những chữ như ly khách, cửa ải xa, xóm thanh b́nh, trường thành, quan san, trường đ́nh, thét roi, cô phụ, đoạn trường như Thâm Tâm, không có những chữ như vương tơ, lăo bộc, vật đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận t́nh, buồng the như Nguyễn Bính. Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Chúng ta thấy thêm, ở Nguyễn Bính thường có xu hướng sử dụng từ ngữ địa phương mỗi khi có điều kiện, chẳng hạn "giời" thay cho "trời", "giầu" thay cho "trầu"... Như trong bài Cô gái vườn Thanh, Nguyễn Bính viết: "Vườn Thanh qua đấy năm xưa/Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời". Đây là một thói quen mà T.T.Kh không hề có.

Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm cho thấy tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ yếu được đào tạo theo quốc học. Về mặt sử dụng h́nh ảnh, cũng có những điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ đơn giản: h́nh ảnh bông hoa ti gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập vào Việt Nam trước đó không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đ́nh trưởng giả. Nó có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà thơ áo bào gốc liễu như Thâm Tâm. Nếu cần dùng h́nh ảnh một loài hoa nào đó để làm thơ thay cho người khác th́ với Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng hoa gạo, hoa lư, hoa xoan... c̣n với Nguyễn Bính th́ ông sẽ dùng hoa cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp... để gợi cảm hứng. Thâm Tâm và Nguyễn Bính quyết không bao giờ dùng thứ hoa ti gôn xa lạ ấy: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u ḿnh với chúng ḿnh chân quê" (Thơ Nguyễn Bính), "Trăm giàn lư đỏ đă lên hoa/Tâm sự in như cảnh ác tà" (Thơ Thâm Tâm).

Thế nhưng h́nh ảnh trong thơ T.T.Kh th́ lại khác. Nhiều h́nh ảnh trong thơ T.T.Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính: nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô... Những h́nh ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống" chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.

Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lơi hơn nữa. Một điều rất rơ là khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ. Thế nhưng như đă thấy, nhiều người vẫn cho rằng T.T.Kh là đàn ông. Bởi vậy chúng ta cần t́m hiểu xem liệu có thể xảy ra điều giả định ấy được không? Điều này cũng góp phần loại bỏ bớt những "ứng viên" là nam giới.

Thật ra, nhiều câu thơ của T.T.Kh thể hiện rất rơ tính nữ trong đó. Đọc kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ th́ mới viết như thế: "Nếu biết rằng tôi đă lấy chồng/Trời ơi người ấy có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông thường lo người ḿnh yêu bị khổ c̣n phụ nữ sẽ lo người ḿnh yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ th́ T.T.Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy có buồn không". Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và nói: "Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Ḷng tôi c̣n giá đến bao giờ?/Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ.../Người ấy cho nên vẫn hững hờ". Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ nữ đă có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.

Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư t́nh cảm của con người. Nếu là một người hóa thân thành người khác để làm thơ th́ rất khó, ngoại trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận: "Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi rồi đây/Nếu không yên được th́ tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này" (Bài thơ cuối cùng), "Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung/Giận anh em viết ḍng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng" (Bài thơ cuối cùng), "Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)...

Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái "đóng vai" để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện t́nh phụ tầm thường nhạt nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những bài thơ mang tên T.T.Kh. T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.

4.Mối quan hệ giữa T.T.Kh. và tác giả truyện ngắn

T.T.Kh đă sáng tác nên những bài thơ t́nh bất hủ v́ chuyện ngang trái t́nh duyên. Điều này th́ đă quá rơ. Nhưng ta cần biết ai là người đă làm cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu hỏi này là ta có trong tay chiếc ch́a khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.

Hăy đọc lại bài thơ đầu tiên của T.T.Kh. Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả viết ngay sau khi đọc được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như "họa" lại truyện ngắn, từ h́nh thức cho đến nội dung. Khởi đầu là cái tựa: Hoa ti gôn - Hai sắc hoa ti gôn. Truyện ngắn mở đầu bằng h́nh ảnh một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những cánh hoa: "Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn". Chuyện t́nh thơ cũng bắt đầu từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên Tây ấy: "Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn/Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn/Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc/Tôi chờ người đến với yêu đương".

T.T.Kh và Thanh Châu đă lấy cùng một loài hoa để khơi ḍng tâm sự. Thứ hoa dây leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh chụm lại thành "h́nh quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là "quả tim vỡ". "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ t́nh ta cũng vỡ thôi".

Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài hoa này đă quá nổi tiếng th́ nh́n nó, người ta có thể nghĩ đến h́nh dáng quả tim vỡ làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa xảy ra, khó có ai nghĩ đến điều này. Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy rằng, thật khéo tưởng tượng th́ mới nghĩ ra được như thế. Thế mà câu chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T.T.Kh đều xoay quanh cái chi tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu v́ sao những nhân vật trong thơ và trong truyện có cách nh́n giống nhau đến vậy? T.T.Kh nói rằng đó chẳng qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".

Như vậy là ta đoán nhầm? V́ T.T.Kh đă nói rơ rằng hai người không quen biết ǵ nhau. Chẳng qua chỉ là sự t́nh cờ. Nhưng ta vẫn thấy có quá nhiều băn khoăn. V́ lẽ ǵ cánh hoa ti gôn ấy lại ám ảnh cả hai người như vậy?

Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của chàng họa sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi kịch khi chàng nhận phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn nhỏ rơi ra. Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến chỗ kết thúc một mối t́nh: “Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”.

Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết: "Đang lúc ḷng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt ḍng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".

Bạn đọc hăy lưu ư đến những cánh hoa ti gôn. Không chỉ trong bài thơ trước mới có mặt chúng, loài hoa này hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện t́nh buồn này. Lẽ ra ta nên gọi nghi án văn học này là nghi án văn học hoa ti gôn. Hoa ti gôn - chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong tiểu thuyết Gánh hàng hoa của nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện. Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ có những bài thơ tuyệt tác của T.T.Kh, không bao giờ có được câu chuyện t́nh văn chương kỳ lạ này.

Nhưng ta hăy chú ư điều này: trong bài thơ thứ hai, T.T.Kh không c̣n nh́n những cánh hoa ti gôn với vẻ lăng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ như giận người nhắc đến cánh hoa ti gôn: "Đang lúc ḷng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt ḍng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".

Chúng ta thấy hé lộ ra một điều không b́nh thường. Lúc trước nàng bảo, ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn Hoa ti gôn, thấy ai cũng có tâm trạng giống ḿnh nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi đăng báo cho vơi bớt nỗi ḷng, thế mà bây giờ lại có ư trách người viết truyện.

Bạn đọc hỏi, có thấy nàng giận hờn trách móc chỗ nào đâu? Có đấy! Nàng trách nhưng mà trách khéo lắm. Trách mà không có lời trách. Ta hăy đọc tiếp: "Đẹp ǵ một mảnh ḷng tan vỡ/Đă bọc hoa tàn dấu xác xơ". Ư nàng muốn nói rằng, c̣n ǵ đâu nữa, giờ mọi chuyện đă lỡ làng hết cả rồi, t́nh tan nát như loài hoa tim vỡ rồi, người nhắc đến chuyện xưa làm ǵ nữa.

Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng nàng đối thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều ǵ. Nhờ tài hoa, nàng đă làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế kỷ qua. Đây là lời dặn của nàng: "Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá/V́ tôi c̣n nhớ hẹn nhau xưa:/“Cố quên đi nhé câm mà nín/Đừng thở than bằng những giọng thơ".

Nhưng thật không may. Bài thơ cuối cùng đă làm nàng lộ tẩy. Nàng không thể giữ kín cuộc đối thoại: "Đă lỡ thôi rồi chuyện biệt ly/Càng khơi càng thấy lụy từng khi/Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết t́nh em được ích ǵ?"

Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Bạn đọc đă thấy chưa! Thật là giấu đầu hở đuôi. Nàng đă quên cả giữ ư tứ, đi trách một người mà nàng bảo là không quen biết. Cái bọc đă không giấu nổi cây kim. Ấy là v́ chuyện Bài thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến đây, chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ ǵ th́ mới đi trách người chứ!...

5.Ai là người yêu của T.T.Kh. ?

Thưa bạn đọc, chúng tôi đă có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông việc T.T.Kh đă trách ông. Nhà văn cũng đồng ư với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ư như thế.

Đến đây, chúng tôi muốn tạm gác câu chuyện hoa ti gôn lại trong chốc lát để chuyển qua chuyện Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu thừa nhận là của T.T.Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối bất thường. Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại đăng ở báo khác. Thứ hai là về h́nh thức, nó cũng khác ba bài thơ kia. So sánh với ba bài kia, Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc biệt trong khi ba bài thơ của T.T.Kh đều là thơ bảy chữ th́ Bài thơ đan áo lại theo thể thơ lục bát. Thật là vô lư khi T.T.Kh đang rất điêu luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua thơ lục bát để rồi lúng túng trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được nhuyễn. Chính những vướng mắc trên đă khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của người khác giả mạo T.T.Kh.

Thế nhưng T.T.Kh lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài thơ cuối cùng nàng lại nhắc đến nó: "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem". Hiểu thế nào cho đúng về vấn đề này? Ai là người đă viết Bài thơ đan áo? Chúng ta nhớ một điều, Bài thơ đan áo ngoài những bất thường như nói trên c̣n có điểm khác biệt rất lớn với ba bài thơ kia. Đó là tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một người chị nào đó: "Chị ơi, nếu chị đă yêu/Đă từng lỡ hái ít nhiều đau thương".

Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng. Trong bài thơ đó, T.T.Kh đă nhắc đến một người nào đó ngoài người ấy: "Chỉ có ba người đă đọc riêng/Bài thơ đan áo của chồng em". Ba người ấy là ai? Phải chăng là có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?

Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ. Qua phân tích cuộc "đối thoại", chúng ta đă thấy được phần nào mối quan hệ "không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đă trách "Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết t́nh em được ích ǵ". Chúng ta tiếp tục phân tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra c̣n có thêm nhân vật anh: "Giận anh em viết ḍng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng". Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?

Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu th́ Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện t́nh duyên ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau th́ Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.

Chúng ta chú ư, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực tiếp với người yêu ḿnh: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?". Tại sao như vậy? Là v́ lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói chuyện "đâu ra đấy" với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ thơ thứ năm: "Từ đây anh hăy bán thơ anh/C̣n để yên tôi với một ḿnh". Ta thấy lúc này nàng cự căi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ chàng vừa gây ra một lỗi lầm ǵ đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem" th́ ta sẽ hiểu ngay chuyện ǵ. Đó là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đă lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức. "Rao bán" là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đă để lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này v́ một lẽ ǵ đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều ǵ hệ trọng lắm nên nàng đă hết sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".

Hăy để ư thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa ḷng, hừ đă ghét/Th́ đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rơ: người gây ra chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước th́ nàng cố giấu nhưng bây giờ v́ đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn.

Như vậy th́ nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một.

Như vậy mối quan hệ là đă rơ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh. Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn tôi phơi phới quá/Ḷng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương".

Thật sự ta đă giải mă được vấn đề quan trọng là t́m ra người ấy của T.T.Kh. Đến đây, chúng tôi muốn trở lại vấn đề ai đă viết Bài thơ đan áo. Như trên đă phân tích, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với ba bài thơ kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc điểm quan trọng nhất th́ nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác. Bài thơ đan áo cũng được viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh": "Chị ơi nếu chị đă yêu/Đă từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Chúng tôi cho rằng, bài thơ này cũng là của T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài thơ kia rất lâu. Bạn đọc có thể thắc mắc: v́ sao Bài thơ đan áo không hay như mấy bài thơ kia. Đó là do hoàn cảnh sáng tác. Trước đây, T.T.Kh chỉ sáng tác để gửi cho người chị nào đó của ḿnh đọc nên có thể cảm xúc không trào dâng bằng viết cho người ḿnh yêu.

6.Ai có thể là T.T.Kh. ?

Quá tŕnh lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đă đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị Khánh...

Vậy c̣n lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đă gây ra nhiều tranh căi trên công luận vào năm 1994.

Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đ́nh khá giả, lớn lên lập gia đ́nh với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc pḥng trong chế độ Sài G̣n.

Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đă có một số thơ đăng trên các báo ở Sài G̣n trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.

Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, th́ chính bà Vân Chung đă công khai lên tiếng phủ nhận ḿnh là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đă làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi v́ cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô t́nh của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.

Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đă quá lâu, nay lỡ biết rồi th́ không thể không công bố". Tác giả Ngọc T́nh trên Báo Sài G̣n Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đă được phát giác, tác giả cuốn sách giải tŕnh đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đă gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rơ ràng mới bật mí được câu chuyện t́nh lăng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".

Các ư kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.

Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh th́ theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).

Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xă Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đ́nh thuộc ḍng dơi quan lại nhưng đến thời của ông th́ gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đ́nh bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.

Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp tṛ chuyện với cô em của người bạn ḿnh là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đă khởi đầu cho một cuộc t́nh đầy nước mắt về sau.

Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và t́nh cảm ngày càng thắm thiết. Gia đ́nh hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc t́nh duyên không đi đến đoạn kết v́ vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau th́ đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: "Ở lại vườn Thanh có một ḿnh/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".

Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đ́nh nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".

Mối t́nh giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối t́nh văn chương cao đẹp v́ cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lăng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lăng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.

Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa v́ đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đă cùng chồng vào Nam c̣n Thanh Châu ở lại quê nhà. Măi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới t́m vào Sài G̣n để thăm lại cố nhân.

Nhà văn Thanh Châu đă trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ư khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. V́ vậy, chúng ta hăy tiếp tục so sánh đối chiếu.

7.Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh.

Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đă giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh căi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh th́ vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xă Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong thời gian quen biết nhau.

Chúng ta hăy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đă đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một gia đ́nh khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.

Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của chính bà Vân Chung, th́ bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đă 18 tuổi tṛn. Đó là tính theo tuổi Tây. C̣n theo tuổi ta th́ đă 19. Như vậy bà hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy th́ đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh th́ bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn: "Nếu biết rằng tôi đă lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn không".

Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ không ở quê nhà. V́ thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết rằng...".

Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đă viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh "họa" lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy ǵ trong những trang viết của Thanh Châu?

Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đă hết sức sầu thương về mối t́nh ấy. Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết: "V́ tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái ǵ là tê tái trong t́nh ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đă từng chua xót v́ yêu". Đó chính là sự chua xót về mối t́nh giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đă xác nhận.

Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ư nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đ́nh phong kiến ngự trị ngàn năm trong xă hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của ḿnh trốn đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là v́ lúc này hoàn cảnh xă hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa c̣n hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài ṿng cương tỏa của chế độ gia đ́nh phong kiến. T́nh cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương tự như t́nh cảnh của Dũng và Loan.

Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê đă rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là ḷng khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái t́nh duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện v́ "em không phải là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng", v́ "em bỗng sợ, em sợ gia đ́nh tan tác, khổ thân thầy mẹ em". Những chi tiết, h́nh ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ư. Chẳng hạn như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt t́nh yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại măi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những "cánh hoa tim vỡ" là của Thanh Châu.

Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đă đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này, một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giăi bày tâm sự của ḿnh.

Chính ra Thanh Châu đă bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đă ngắt những bông hoa ấy trong tay và ṿ nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút. Mà tùy bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đă ṿ nát những cánh hoa ti gôn v́ lẽ ǵ? Phải chăng v́ nó đă từng là "chứng nhân" một thời của t́nh yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: "Bỗng nhiên, nh́n những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu".

Trong những phần trước, chúng ta đă nhắc đến chuyện những cánh hoa ti gôn. Giờ đây ta lại thấy rơ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nh́n thấy bông hoa ti gôn có h́nh quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể đă có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm phai" này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bă nhớ nhung hoài niệm về mối t́nh xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đă không ḱm nổi ḷng ḿnh mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi về "vườn Thanh" cho người xưa.

Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lăng mạn đều t́m đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. V́ thế truyện ngắn này đă đến tay Vân Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau ḷng không kém. Trong t́nh cảnh như thế, th́ một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?

Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số "ứng viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lư lịch văn học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh th́ dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo...
Chúng tôi đă cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:

Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh b́nh
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Băo táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
(Bài thơ cuối thu, 1960)
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đă vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Ch́m trong làng vắng tiêu điều chiêm bao
(Vào thu - 1993)


Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút ǵ là của T.T.Kh không?
Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài thơ th́ có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T.T.Kh.

Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều b́nh thường. Chính v́ vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là T.T.Kh v́ thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.

Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc biệt th́ khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một tấm h́nh chụp phong cảnh bến đ̣ Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số th́ không thể nào có được bài thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh th́ cũng thế. Chỉ trong hoàn cảnh t́nh duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng th́ mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. C̣n như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời b́nh thường bên cạnh người chồng giàu sang của ḿnh, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện b́nh thường và hợp lư.

Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu cùng quư bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mă nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định. Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong ḷng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể không viết lại câu chuyện này. V́ nó là khát khao của người yêu thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, v́ ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến cơi ḷng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đă từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: "Bốn năm đă qua từ ngày tờ báo vô t́nh hé mở cho ta một cơi ḷng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?". Cho đến nay, đă qua bảy mươi năm, có lẽ người đă quyết định "ôm nỗi buồn riêng về nơi chín suối" rồi. V́ thế giả định này nếu đúng chắc người cũng không lên tiếng tự nhận ḿnh là T.T.Kh. Vậy xin hăy xem đây như là một việc làm v́ ḷng mến yêu con người đă để lại cho đời những vần thơ say đắm ấy để có câu chuyện này.

Truyện ngắn "Hoa ti gôn" của nhà văn Thanh Châu đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy

"...Hoa leo ti gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống ḷng bất trắc của con người..."
KHÁI HƯNG (Gánh hàng hoa)

Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người học tṛ thân nào là không biết rơ. Đến mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng c̣n thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti gôn h́nh quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong pḥng quá một ngày đă rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.

*

Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, c̣n là một họa sĩ nghèo mới ở trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi t́m cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.

Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hăm xe, nghễnh cổ nh́n qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, t́nh cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô t́nh, bận gỡ hoa trên giàn đă để Lê Chất có th́ giờ nh́n ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nh́n ra đường thấy có người đứng nh́n ḿnh, mới cau mày tỏ vẻ không bằng ḷng.

Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, v́ c̣n bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.

Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà h́nh như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nh́n thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.

Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân h́nh, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đă vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…

Lê Chất đă nổi tiếng. Thầy học cũ của anh v́ mến tài, đă đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đă bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đă khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đă trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đă đứng tuổi, từ lâu không c̣n là gă họa sĩ nghèo huưt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi t́m cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.

Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đăi của ṭa lănh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đă gặp người này. Ở đâu? Chất giật ḿnh. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rơ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong ṭa lănh sự.

Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:

- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?

Thiếu phụ nh́n chàng rất ngạc nhiên:

- Ông nói ǵ… tôi không hiểu.

- Có lẽ bà đă quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…

Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:

- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nh́n trộm tôi ngày trước đó không?

Nàng nói tiếp:

- Thảo nào mới nh́n ông tôi cũng tự nghĩ không biết đă gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta c̣n nhận được nhau…

Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà ḿnh, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đă dự vào dĩ văng tươi đẹp của ḿnh, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm t́nh với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.

Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:

- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng c̣n gặp Hạnh, bởi v́ không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được ḷng tôi lúc này không?

Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đă ôm nàng th́ Hạnh không cưỡng lại:

- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.

Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.

Mai Hạnh cố chống chọi lại với t́nh yêu mỗi ngày một lớn, c̣n Lê Chất th́ lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.

Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đă sẵn sàng, th́ phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hăy đi một ḿnh và quên em đi, v́ em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đă tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đ́nh tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đă sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, v́ em đă hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết v́ anh được. Trong đời anh c̣n nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng c̣n em th́ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! V́ em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đă làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”

Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm h́nh quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.

Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một ḿnh.

*

Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy ḿnh một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem th́ đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đă chết.

Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đă quên không hỏi xem Mai Hạnh đă chết v́ một bệnh ǵ, một cơn cảm sốt…, hay v́ sầu muộn…

Ngày nay, họa sư Lê Chất đă già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong pḥng vẽ, v́ thứ hoa ấy chóng tàn.

Hai sắc hoa Tigôn và các bài thơ khác

Vào khoảng 6/1937, báo Tiểu thuyết thứ bảy xuất bản tại Hà Nội đăng truyện ngắn Hoa ti gôn của kư giả Thanh Châu. Theo đó câu chuyện kể lại một mối t́nh giữa một chàng nghệ sĩ và một thiếu nữ.

Sau đó không lâu, toà soạn nhận được của một người thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thùy mị, nét mặt u buồn, mang đến một b́ thơ dán kín gửi cho chủ bút, trong đó chỉ gọn một bài thơ Hai sắc hoa ty-gôn, dưới kư tên T.T.Kh. Khi thiếu phụ đi rồi, ṭa soạn xem thơ nhận thấy thi phẩm ghi lại cảnh t́nh đáng thương tâm, nhưng người ta chỉ nhớ lờ mờ h́nh ảnh thiếu phụ kia. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.

Câu chuyện Hoa ti-gôn đă khơi lại mối t́nh xưa mà người thiếu phụ (T.T.Kh.) đă từng yêu một người và từng trao lời gắn bó dưới dàn hoa ti-gôn. Rồi chàng ra đi; nàng ở lại và nhận một mối t́nh gượng ép. Nàng đă làm bài thơ để giải toả niềm tâm sự.

Trong Hai sắc hoa ti-gôn, tác giả thuật lại câu chuyện t́nh giữa nàng và chàng nghệ sĩ trót đă yêu nhau, song hoàn cảnh trái ngang, nàng phải gạt nước mắt nên duyên cùng người khác - một ông chồng luống tuổi - để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời quá khứ.

Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy lại nhận được bằng đường bưu cục 3 tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh. Đó là các bài Bài thơ thứ nhất, Bài thơ đan áo (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và Bài thơ cuối cùng.

Từ đó về sau, người ta không c̣n gặp thơ của T.T.Kh nữa và không hiểu tại sao bài Hai sắc hoa ti-gôn lại xuất hiện trước Bài thơ thứ nhất.

Từ lúc T.T. Kh góp mặt vào làng thi ca tiền chiến, người ta đă tốn biết bao công phu đi t́m hiểu về T.T.Kh.. Không ai biết được tên thật cũng như quê quán của nàng. Có người cho nàng là Trần Thị Khánh, một nữ sinh phố Sinh Từ, Hà Nội. Có kẻ cho cô là người yêu của thi sĩ Thâm Tâm, hay đây chỉ là một nhân vật trong tưởng tượng của ông nhằm lâm ly hoá hay thi vị hoá một mối t́nh tưởng tượng. Rồi, kư giả Thanh Châu, các thi sĩ Nguyễn Bính và J. Leiba cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của ḿnh! Kể từ đó, dù cho các nhà văn tốn không biết bao giấy mực nhưng họ vẫn không biết ǵ hơn về nàng.

Về hoa ty-gôn (antigone in French): loại hoa dây đẹp, không thơm, có h́nh quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu trắng và hồng; ở miền Nam VN gọi là hoa nho v́ lá giống lá nho. Tác giả mượn ư màu trắng là màu trinh bạch, ngây thơ khi nàng c̣n nhỏ dại, và hồng là màu mà nàng phải trải qua những sự đau khổ trong t́nh trường khi con tim nàng tan vỡ...

Như ta đă thấy Bài thơ cuối cùng, xuất hiện vào giữa năm 1938, trong đó T.T.Kh. giận trách người t́nh cũ đă đem thơ của nàng lên mặt báo làm lộ chuyện thầm kín "cho khắp người đời thóc mách xem", th́ không c̣n thấy xuất hiện bài thơ nào khác của nàng nữa.

Măi tới 2 năm sau, vào giữa 1940, mới thấy xuất hiện bài thơ Gửi T.T.Kh với bút hiệu Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Tŕnh,1917-1948), có lẽ là ông ở xa vừa mới về. Ông tự nhận là người t́nh cũ của T.T.Kh, gọi nàng bằng tên "Khánh" và nhắc tên nầy tổng cộng 4 lần. Bài thơ nầy là để trả lời cho 4 bài thơ của nàng, nhưng với giọng điệu cay đắng, mỉa mai!

Ngoài ra Thâm Tâm c̣n 2 bài thơ khác viết cho T.T.Kh như sau: Màu máu ty-gôn, Dang dở.

Đây là những bài thơ t́nh hay nhất của Thâm Tâm gởi cho T.T.Kh xuất hiện trong năm 1940. Bài thơ Dang dở trên đă chấm dứt "mối t́nh bí mật" đó. Nhưng...

Sau đó, người ta lại được "biết chút ít" về T.T.Kh. qua bài thơ Ḍng dư lệ của Nguyễn Bính. Lúc bấy giờ ai chẳng nghỉ T.T.Kh chính là người t́nh vườn Thanh của Nguyễn Bính. Nhưng đó chỉ là sự ngộ nhận của một kẻ si thơ T.T.Kh mà thôi.

Thi sĩ Nguyễn Bính lúc c̣n trẻ có máu giang hồ, vào Nam ra Bắc mấy lần. Một lần dong ruổi, gặp đêm mưa lớn, ông ghé vào trọ tại một nhà ở vùng Thanh Hóa, được người lăo bộc tiếp đăi. Nhà có khu vuờn đẹp, trong nhà có cô gái trẻ ngồi quay tơ - mà ông gọi là "Người Vườn Thanh" - đă khiến ông run động, thao thức bâng quơ, nhưng nghĩ ḿnh c̣n nặng kiếp giang hồ nên chưa dám tính đến chuyện t́nh duyên.

Rồi mấy năm sau, ông lại có dịp qua vùng Thanh Hóa, bèn t́m đến chốn cũ, th́ được người lăo bộc năm xưa kể cho nghe "một thiên hận t́nh". Thời gian lại qua đi, ông gần như đă quên câu chuyện đó, th́ đọc được những bài thơ của T.T.Kh xuất hiện trên báo. Ông thấy những bài thơ đó giống hệt thiên hận t́nh của "Người vườn Thanh" năm nào, ông nghĩ rằng "Người vườn Thanh" chính là T.T.Kh., và viết bài thơ Ḍng dư lệ để tặng nàng.

Mặc dầu xôn xao bàn tán và tranh dành lấy ḿnh và lấy thơ của ḿnh, T.T.KH đă biến mất. Cho đến mùa xuân năm 1938 ngày 30 tháng 10 th́ trên Tiểu thuyết thứ bảy lại xuất hiện T.T.KH với Bài thơ cuối cùng. Đó là ba bài thơ mà T.T.KH đă để lại trong ḷng tất cả người yêu thơ của bà. Cho đến thập kỷ 80, vẫn có người nói rằng bà c̣n sống và đă gặp bà, nhưng dù sao đó cũng chỉ là một lời nói mà thôi.

Vậy T.T.KH nàng là ai ??? và v́ ai mà làm thơ ??? Cái nghi vấn đă kéo dài hơn 50 năm cho đến năm 1994. Bà Đ.T.L (tạm dấu tên) đă tiết lộ cái mà thiện hạ cho là "Thiên cơ bất khả tiết lộ" cho nhà văn Thế Nhật, và đó cũng là cái ch́a khoá để mở cái cửa nghi vấn cho làng văn học Việt nam.

T.T.KH là ǵ?
T chữ thứ nhất là TRẦN
T chữ thứ hai là THANH
KH chữ thứ ba là KHÓC

KHÓC ở đây là khóc cho mối t́nh có duyên không nợ, khóc cho cái éo le cuộc đời. Tạo hoá chớ trêu kiến cho họ gặp nhau rồi đem cho họ bao nhiêu là nước mắc ngậm ngùi khi xa nhau.

THANH là Thanh Tâm, là tác giả của bài Hoa ti-gôn mà tôi đă nhắc ở trên, ông hiện cư ngụ tại Hà nội, là người đă tạo cho T.T.KH những cảm xúc để viết lên những giận hờn, thương xót, và khóc thương. Người đă mang nặng chữ chung, thủy với chữ t́nh, đă gắn bó với thơ T.T.KH, với cái hồn của nàng suốt hơn 50 năm trời đằng đẵng. Một người mà hôm nay thân đă tàn sức đă tận, nhưng tâm hồn vẫn lâng lâng cái trẻ trung, cái nhớ thương ray rứt về cố nhân. Một người có tâm hồn cao thương và sắc đá, trước những thử thách chơ trêu của tạo hoá, nhưng lại mềm mại, đắng cay trong từng ng̣i bút ông buông lơi.

TRẦN là Trần Thị Chung (Tên thường goị là Trần Thị Vân Chung), sinh ngày 25-8-1919 tại thị xă Thanh Hoá, Hà Nộị Sinh trưởng trong một gia đ́nh quan lại thời bấy giờ, Vân Chung có một người anh cả, hai người em gái và một người em trai út. Năm 1934, qua mối mai, gia đ́nh nàng đă hứa gả nàng cho mọt luật sư (Lê Ngọc Chấn, ông đă chết sau khi măn tù cải tạo học tập). Hiện nay bà cùng các con sinh sống ở miền nam nước Pháp trong một thị xă nhỏ và bà vẫn tiếp tục làm thơ, viết văn với nhiều bút hiệu khác khau như Vân Nương, Tơ Sương v.v...

Tôi xin gửi đến bà Vân Chung lời cảm khích vô cùng về những cống hiến của bà cho nền văn học Việt Nam, cảm ơn nhà văn Thế Nhật, bà Đ.T.L cùng những người yêu T.T.KH. Ruốt cuộc cái nghi án văn hoc. nay đă được công bố.











Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
 

  góp ư kiến

 
   

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đă đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ư kiến

 
 

 


Nhà | Ghi danh Thành Viên | Thơ | H́nh ảnh | Danh Sách | T́m | Diễn đàn | Liên lạc | Điều lệ | Music | Link | Advertise

Copyright © 2024 Vietnam Single & Tim ban bon phuong All rights reserved.
Hoc Tieng Anh - Submit Website Today - Ecard Thiep - Hot Deal Network