Nét độc đáo của Ca-chiu-sa c̣n ở chỗ, đó là ca khúc có cốt truyện. Và cốt truyện được “cặp đôi sáng tác” dựng nên bằng chất liệu thực của cuộc sống.
Những ngày cuối tháng 1/2010, không khí lễ hội bao trùm toàn bộ thành phố Smolensk (LB Nga). Lễ hội ấy liên quan đến một nhà thơ Nga được yêu mến không chỉ ở Nga và c̣n nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Tên ông là Mikhail Vasilievich Isakovsky (1900-1973). Dân chúng Smolensk kỷ niệm 110 năm ngày sinh của nhà thơ. Dưới chân tượng đài ông, bên trong và bên ngoài Nhà văn hóa thành phố, ngoài đường, khắp nơi, người ta hát những bài ca nổi tiếng phổ thơ ông: “Đàn phong cầm cô độc”, “Nghe thấy anh không, bé xinh”, “Ôi kim ngân hoa nở”, “Bầy chim di cư bay qua”, “Ngọn lửa nhỏ”, “Anh vẫn như xưa”, “Lại lặng phắc cho đến b́nh minh”, và đặc biệt là… Ca-chiu-sa.
Ca-chiu-sa, bài ca không của riêng ai
"Đào vừa ra hoa, cành theo lá đưa vờn trăng tà
Ngoài ḍng sông, màn sương trắng buôn lững lờ
Từ bến sông thoáng bóng ai in trên màn sương mờ
Cất cao lời ca, làm rung cỏ cây ven bờ... "
Trong rất nhiều buổi giao lưu với các chiến sĩ biên pḥng Việt Nam, lời hát này được các chiến sĩ cùng ḥa giọng, với nhiều xúc động. Ca-chiu-sa, cô thôn nữ Nga, dường như đă là người thân đối với người lính Việt.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Xô Viết Iu.E.Biryukov đă kể trong nhiều bài báo của ḿnh về lịch sử ra đời của Ca-chiu-sa như thế này: Ban đầu, nhà thơ M.V.Isakovsky chỉ viết được một khổ thơ về cô gái Ca-chiu-sa “bước ra bờ sông khúc khuỷu và hát”. Rồi bí, chẳng biết viết ǵ tiếp, và bỏ đoạn thơ sang một bên. Cho đến khi gặp nhạc sĩ M.I.Blanter. Blanter sốt sắng “ép” Isakovsky hoàn thành nốt bài thơ của ḿnh. Theo lời Blanter, sau khi gặp Isakovsky về, trong đầu ông chỉ toàn vang lên đoạn nhạc tương lai của Ca-chiu-sa. Ông nhận xét, thơ Isakovsky có âm điệu đặc biệt độc đáo, có tṛ chơi biến ảo của các trọng âm, v́ thế rất gần với kiểu thơ hát đối vui nhộn trong ḍng âm nhạc dân gian Nga.
Thể loại cho Ca-chiu-sa đă được xác định! Dễ hiểu v́ sao Ca-chiu-sa được hát nhiều đến thế trong các buổi lễ hội dân gian ở các thành phố cổ và làng quê Nga. Nó mang âm điệu tha thiết của dân ca, đặc biệt là lúc người hát cố t́nh cao giọng luyến láy với những âm vực cao gắt đáng yêu, th́ bài ca mang lại cho người nghe niềm hưng phấn khó tả, khiến họ không thể không cất giọng hát theo, cho dù là người già hay người trẻ, nam thanh hay nữ tú. Điều này vẫn xảy ra trong những năm tháng chiến tranh, hậu chiến, và cả thời hiện đại bây giờ.
Nhưng, nét độc đáo của Ca-chiu-sa c̣n ở chỗ, đó là ca khúc có cốt truyện. Và cốt truyện được “cặp đôi sáng tác” dựng nên bằng chất liệu thực của cuộc sống. Ca khúc trữ t́nh, nhưng là chất trữ t́nh dữ dội của cái thời mà xung quanh đang ngập tràn những dự cảm đáng sợ về một cuộc chiến khốc liệt.
Isakovsky sau này hồi tưởng lại: “Chúng tôi cảm thấy chiến tranh đang đến gần, dù không biết chắc nó sẽ nổ ra khi nào và ở đâu. Nhưng không chỉ tiên cảm về chiến tranh, tất cả chúng tôi khi ấy đă bắt đầu trải qua cảm xúc đang đằm ḿnh trong cuộc chiến, bởi năm 1938 vẫn đang có chiến sự ở Tây Ban Nha, rồi cuộc va chạm của Hồng Quân với những samurai Nhật Bản bên hồ Hasan, rồi những tin tức bất an ở biên giới phía Tây nữa…”
Đề tài chiến tranh, nhưng chất trữ t́nh vẫn là chủ đạo. T́nh yêu giữa các cô gái với những người lính, chia tay và chờ đợi – đó là điều tất yếu phải có trong mọi cuộc chiến. Thời bấy giờ đă có những bài ca về đề tài này, nhưng thường là buồn. C̣n Ca-chiu-sa th́ ngược lại, những lời thơ giản dị trong sáng, rành mạch rơ ràng, đem đến cho người hát và người nghe niềm hy vọng sáng suốt.
Hậu phương hướng về tiền tuyến, tiền tuyến lại hoàn toàn tin tưởng ở hậu phương. Đây là điểm khiến Ca-chiu-sa mang âm hưởng hiện đại so với tất cả những bài ca trước đó nói về sự chia biệt trong loạn lạc. Và ngay cả khi so sánh với bài thơ được viết sau đó vài năm của Simonov, bài thơ nổi tiếng đối với bạn đọc Việt Nam qua bản dịch của Tố Hữu “Đợi anh”, th́ sự chờ đợi của Ca-chiu-sa cũng khác rất nhiều. Nó không day dứt đau khổ, không ṿ vơ âm thầm, nó giản dị, nó nhẹ như không, như với cuộc sống này, sự đợi chờ người chinh chiến “nơi biên thùy” là chuyện đương nhiên, với niềm tự hào vô biên trong trái tim cô gái. Thầm so sánh như vậy, tôi càng hiểu v́ sao các chiến sĩ biên pḥng của chúng ta lại yêu thích bài ca này đến thế!
Ca-chiu-sa, nàng là ai?
Cho dù ngay chính Isakovsky có bao giờ từng kể về nguyên mẫu của nhân vật Ca-chiu-sa bất tử kia, th́ với người dân và những người lính Nga, câu chuyện đó cũng sẽ không phải là… sự thật duy nhất! Tôi đọc được rất nhiều thông tin về “nhân thân” của Ca-chiu-sa. Đó là những cô gái Nga từ các miền quê khác nhau, cùng tên Ekaterina mà khác họ, thậm chí, người ta kể về những nhân vật từng tham gia chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, về những cô gái du kích, giao liên, y tá quân y, bất chấp một điều rằng, bài hát được viết năm 1938!
Song, nếu lắng nghe các “khảo dị” của bài ca, mới biết, Ca-chiu-sa đă không c̣n là của riêng Isakovsky nữa. Những người lính, ai cũng muốn nh́n thấy cô gái của ḿnh trong đó, v́ thế mà có hẳn một phong trào viết lại lời cho Ca-chiu-sa, thay đổi một số chi tiết để một nàng Ca-chiu-sa gần gụi hiện ra.
Ngoài ra, lại có một “nàng Ca-chiu-sa” khác, không chờ đợi dịu dàng mà sẵn sàng nă đạn vào đối phương. Câu chuyện về một thứ vũ khí mới thời ấy của Liên Xô, giàn pháo phản lực được mang tên Ca-chiu-sa hẳn chúng ta đều biết. Người ta hát về những Ca-chiu-sa ấy, đồng thanh cất lên bài ca dữ dội khiến kẻ thù kinh hăi trên các mặt trận, như thế này:
Những trận chiến diễn ra trên biển cả và đất liền
Xung quanh tiếng đạn pháo gầm lên oai dũng
Đó là “Ca-chiu-sa” của ta đang hát
Này Kaluga, này Tula, này Oriol...
Ca-chiu-sa đến với Việt Nam từ năm 1955, với sự giới thiệu và biên dịch lời của nghệ sĩ trẻ Nguyễn Anh Cường. Mùa hè năm 1985, tại Liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ XII, một cô gái Nga mang tên Ca-chiu-sa, đă đón chào các đoàn đại biểu quốc tế với nụ cười trên môi, trên nền khúc ca quen thuộc. Thanh niên các nước đă cất giọng hát theo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Cuối cùng, họ kêu lên: “Xin chào Ca-chiu-sa!”. Ông Biryukov cho rằng, đó là một trường hợp hi hữu, khi nhân vật của thơ nhạc đă trở thành con người của đời thực. Isakovsky thật là một nhà thơ hạnh phúc !
Isakovsky và duyên phận với thi ca – âm nhạc
Người cha tinh thần của Ca-chiu-sa, công dân thành phố cổ Smolensk, nhà thơ M.V.Isakovsky đă thực sự mang lại vẻ vang cho thành phố của ḿnh. Không chỉ là tác giả của hơn chục tập thơ, người nhiều lần đoạt giải thưởng Quốc gia Liên Xô, anh hùng lao động XHCN, Isakovsky c̣n là tác giả của nhiều công tŕnh nghiên cứu thơ ca về phương diện lư luận, dịch giả chuyển ngữ nhiều thi phẩm của Ukraine, Belorussia, Hungary ra tiếng Nga.
Hàng năm, nhiều người vẫn t́m đến Smolensk để chiêm ngưỡng quê hương của tác giả phần lời của những ca khúc Xô Viết nổi tiếng và thăm viện bảo tàng độc đáo – viện bảo tàng ca khúc Ca-chiu-sa với hàng trăm hiện vật liên quan đến bài ca, được chính nhà thơ thành lập vào năm 1985, từ bấy đến nay đă trở thành địa chỉ văn hóa nổi tiếng cả nước.
Nhưng trong số những người hâm mộ Ca-chiu-sa và Isakovsky, không nhiều người biết rằng ông có một tuổi thơ nghèo khó. Sinh ra trong gia đ́nh nông dân có 13 đứa con, cậu bé Mikhail sớm phải làm việc quần quật, gần như không được đến trường, tự học từ nhỏ cùng sự giúp đỡ của người coi sóc nhà thờ làng. Bù lại, trời cho Isakovsky một tố chất trí thức- nghệ sĩ mạnh mẽ. Độc đáo nhất là cậu bé mê mẩn tiếng… esperanto và đă tiết kiệm tiền để mua nguyệt san «La ondo de Esperanto».
Năm 14 tuổi, cậu bé nông dân Nga đă viết thư sang tận Pháp và Ư theo địa chỉ ghi trong nguyệt san. Hồi âm là món quà vô giá của một nữ sĩ người Pháp: một lá thư kèm bông hoa khô. Bông hoa làm bừng lên niềm mơ mộng của chú bé về nghệ thuật. Từ Ư, chú bé nhận được thư của một nhạc sĩ kèm một bản nhạc. Mikhail đă … viết lời cho bản nhạc ấy và gửi ngược lại Ư.
Dường như đó là định mệnh. Mười bốn tuổi, bài thơ đầu tiên được đăng báo và từ bấy giờ, Isakovsky đă trở thành nhà thơ mà những vần thơ được biết đến hầu như đều qua âm nhạc!
Nhà thơ không hiện đại nhưng không bao giờ lạc hậu!
Isakovsky từng là một hiện tượng văn học khiến các nhà phê b́nh tranh căi và… chê bai. Tập thơ đầu tiên của nhà thơ 28 tuổi từng được chính M.Gorky lên tiếng bênh vực trên tờ “Tin tức” (Izvestya). “Thơ không mới, b́nh b́nh, không say đắm!” – nhiều người nói về thơ ông như thế, và giải thích điều ấy bằng một nguyên nhân, rằng Isakovsky v́ căn bệnh thị giác chưa hề tham chiến trong từng ấy năm đất nước trải qua bao nhiêu biến động binh đao.
Người ta biết đến thơ Isakovsky chủ yếu qua các ca khúc. Có điều, ông chưa hề đề nghị nhạc sĩ nào phổ nhạc thơ ông. Chính âm nhạc nội tại trong ngôn từ của nhà thơ đă là một điều kiện cần cho thành công của ca khúc. V́ thế mà các nhạc sĩ thường nói, họ may mắn khi chọn thơ ông phổ nhạc. Những câu chữ có độ ngân, nhưng lại rất giản dị. Chính điều này khiến thơ ông không bao giờ lạc hậu trong thế giới này, cho dù “không mới” như người ta vẫn nói. Bởi thiếu sự giản dị th́ không có sự vĩ đại - Lev Tolsstoy chẳng từng nói vậy sao?...
Có một bài thơ- ca khúc nữa được coi là « các-visit » của nhà thơ, là bài “Giặc đă đốt nhà”. Isakovsky viết về anh lính trở về sau chiến thắng, khi không c̣n nhà, không c̣n người thân, đứng khóc trước mộ vợ. Những ḍng rất đơn giản, dễ hiểu của nhà thơ chứa đựng nỗi đau hậu chiến, khiến người nghe cảm nhận sâu sắc đến cùng cực sự vô nghĩa và tàn bạo của chiến tranh, thậm chí, đến chiến thắng vẻ vang cũng không xua tan được cảm nhận bi kịch ấy:
Anh đi bốn năm trời để về với em
Anh đă chinh phạt ba cường quốc…
Lệ chảy tràn, người lính say khướt,
Nước mắt của niềm hy vọng không thành
Mà rực sáng trên ngực anh
Tấm huân chương cho cuộc chiến v́ Budapest.
V́ bài thơ này mà Isakovsky gặp rắc rối và bài hát bị cấm lưu hành. Nhiều năm qua đi, niềm vui chiến thắng lắng lại, bài ca này năm 1960 một lần nữa được ca sĩ Mark Bernes tŕnh diễn và từ đó trở thành ca khúc dẫu buồn đau nhưng không thể thiếu mỗi ngày lễ Chiến thắng mùng 9-5. Và h́nh như, với thời gian, nó cũng sẽ không bao giờ cũ !