aka47
member
ID 60289
04/24/2010
|
(20-4 ---> 30-4-1975 Những điều chưa biết mười ngày cuối cùng VNCH
Hôm nay ngày 20-4-2010 , bài tài liệu này AK sưu tầm kể lại một ngày chủ nhật 20-4-1975 về sinh hoạt của chính phủ Miền Nam Việt Nam trước khi đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất vào ngày 30-4 khi bánh xe tăng Bắc Việt tông găy đổ cổng vào của Dinh Độc Lập nơi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu làm việc và treo cờ Giải Phóng Miền Nam Việt Nam lên cột cờ trong ngày lịch sử này.
Mới đó đă 35 năm rồi.
Bài này chỉ ghi lại diễn biến lúc bấy giờ , không phải để phê b́nh.
Đọc để biết chứ AK hổng biết ǵ hết á.
....................................................
....................................................
NGÀY CHỦ NHẬT...cách đây 35 năm
20 THÁNG 4/1975
Trong cuốn hồi kư Đất Nước Tôi được xuất bản vào năm 2003, vị thủ tướng cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa là ông Nguyễn Bá Cẩn cho biết rằng: “Cũng chính ngày 20 tháng 4 nầy, trong lúc Cộng Sản Bắc Việt đang chặt tay, chặt chân để bóp cổ và chọc thủng bụng theo thế đánh mà bọn chúng thường rêu rao để tuyên truyền th́ đồng minh của Việt Nam Cộng Ḥa đă “trảm thủ” miền Nam bằng một nhát gươm ân huệ. Thật vậy, sáng hôm ấy, Đại Sứ Martin đến gặp TT Thiệu. Sau khi Đại sứ Martin ra về th́ một màn khói im lặng và bí mật bao phủ Dinh Độc Lập cho đến sáng hôm sau” (Nguyễn Bá Cẩn: Đất Nước Tôi, Hoa Hoa Press, Derwood, Maryland, trang 420)
Ngày Chủ Nhật 20 tháng 4 không chỉ có Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin mà c̣n có cả đại sứ Pháp Mérillon đến hội kiến với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập với mục đích thuyết phục ông từ chức để cứu văn t́nh h́nh v́ phe công sản dứt khoát không chịu thương thuyết với ông. Theo Frank Snepp và các tác giả của bộ “The Vietnam experience” th́ Đại Sứ Mérillon vào gặp TT Thiệu trước Đại sứ Martin, tuy nhiên theo Oliver Todd th́ ông đại sứ Pháp vào gặp TT Thiệu sau ông đại sứ Hoa Kỳ.
Oliver Todd cho biết vào ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mérillon đến Dinh Độc Lập một ḿnh và nói chuyện thẳng với TT Thiệu. Đại sứ Mérillon nói rằng:
“Thưa Tổng Thống, tôi đến gặp Ngài tại v́ t́nh h́nh đă trở nên vô cùng nghiêm trọng. Không c̣n vấn đề quân sự nữa”. TT Thiệu không trả lời và Đại sứ Mérillon nói tiếp: “Tôi thấy chỉ c̣n là vấn đề chính trị. Cần phải để cho một tiến tŕnh dân chủ được khai triển”.
“Tổng Thống Thiệu ngồi nghe trong khi Đại sứ Mérillon tiếp tục tŕnh bày gần như là độc thoại về những thực tế mà ông Thiệu dần dần bắt đầu hiểu. Đại sứ Mérillon nói rằng chính phủ chỉ c̣n nắm giữ được vài thành phố lớn nhưng ba phần tư lănh thổ đă bị mất vào tay Cộng sản, rồi ông Đại sứ nói đến những mối liên lạc thân hữu giữa cá nhân hai người và cả giữa bà Thiệu và bà Mérillon nữa, ông kêu gọi đến trách nhiệm trước lịch sử, đến danh dự cá nhân và yêu cầu Tổng Thống Thiệu nên làm một sự hy sinh lớn lao cho dân tộc Việt Nam qua một sự thương thuyết không thể tránh khỏi để cho một vài quyền lợi nào đó c̣n có thể cứu văn được.
“Tổng Thống Thiệu bắt đầu nói đến những tái phối trí cần thiết, về sự phản bội của Mỹ và tinh thần chủ bại của một số tướng lănh. Rồi Tổng Thống Thiệu kết thúc cuộc hội kiếh bằng mộtn câu nói rất b́nh dân: “thôi, tới đâu hay tới đó” và ông Đại sứ ra về” (ghi chú: Oliver Todd: sách đă dẫn, trang 312)
Vào hồi 10 giờ sáng, đến lượt Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin vào gặp Tổng Thống Thiệu và cuộc gặp kéo dài trong một tiếng rưởi đồng hồ.
Đại sứ Martin trước hết tŕnh bày với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về nhận định của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ đối với t́nh h́nh quân sự hiện tại. Thực ra th́ bản nhận định nầy đă được Frank Nepp, một chuyên viên phân tích t́nh báo (intelligence analyst) của CIA soạn thảo. Trong cuốn Decent Interval, Frank Nepp tiết lộ rằng ông đă được Polga, Giám Đốc CIA tại Sài G̣n ra chỉ thị phải “soạn thảo bản nhận định càng đen tối càng tốt chừng đó. Đại sứ Martin sẽ dùng bản nhận định nầy để thuyết phục ông Thiệu rằng đă đến lúc ông ta phải ra đi”
Đại sứ Martin đă đưa cho TT Nguyễn Văn Thiệu bản nhận định do Frank Nepp viết nguyên văn như sau:
“Với cuộc sụp đổ của các cuộc pḥng thủ của quân đội của chính phủ quanh tỉnh lỵ Xuân Lộc và sự tiếp tục gia tăng tập trung quân đội của Cộng sản trong Vùng 3 Chiến Thuật cán cân lực lượng trong vùng chung quanh Sài G̣n hiện nay đă nghiêng về phía Bắc Việt và Việt Công. Mặc dù chính phủ vẫn c̣n có thể tăng viện cho một trong những mục tiêu có thể sẽ bị tấn công như Biên Ḥa – Long B́nh ở về phía Đông Sài G̣n, các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa ở về phía Tây hay tỉnh B́nh Dương ở về phía Bắc, tuy nhiên lực lượng của chính phủ sẽ không đủ sức mạnh để pḥng thủ tất cả các mục tiêu nầy một cách hữu hiệu.Mặt khác về phía Bắc Việt và Việt công th́ chỉ trong ṿng ba hay bốn ngày, họ lại có đủ khả năng phóng ra những cuộc hành quân phối hợp trên mức nhiều sư đoàn vào tất cả những mục tiêu nầy. Như vậy th́ chính phủ VNCH sẽ phải đối phó với một t́nh trạng mà trong đó Sài G̣n sẽ bị cô lập và sẽ không c̣n liên lạc được với bên ngoài chỉ trong ṿng vài tuần lễ và có thể rơi vào tay của các lực lượng Bắc Việt – Việt Cộng trong ṿng 3 hay 4 tuần lễ.
(Frank Nepp nói rằng ông muốn viết “chỉ vài tuần lễ” nhưng Polgar không muốn như vậy. Frank Nepp cũng cho biết thêm rằng sau khi ra đi, ông Thiệu vẫn c̣n để bản nhận định nầy trên bàn giấy của ông trong Dinh Độc Lập. Khi VC chiếm Sài G̣n, Văn Tiến Dũng đă lấy được bản nhận định nầy và đă cho đăng nguyên văn trong cuốn sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của ông ta (ghi chú: Frank Nepp: sđd, trang 382)
Sau nầy, trong một buổi tường tŕnh với Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện Mỹ vào ngày 22 tháng 1 năm 1976, Đại sứ Martin nói rằng ông ta đến gặp TT Thiệu “với tư cách cá nhân, ông ta không đại diện cho TT Gerald Ford, không đại diện cho Ngoại Trưởng Henry Kissinger và cũng không nói chuyện với tư cách là đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Ḥa, ông chỉ nói chuyện với tư cách là một người đă từng quan sát t́nh h́nh ở Đông Nam Á từ bao nhiêu năm qua và cũng là một người mà trong hai năm qua đă bỏ ra nhiều th́ giờ t́m hiểu tất cả ngọn ngành của các vấn đề quân sự tại Việt Nam”
Sau khi tŕnh bày với TT Thiệu về nhận định đầy đen tối về t́nh h́nh trong một vài ngày sắp tới, Đại sứ Martin nói rằng ông không hề nói với TT Thiệu là ông ta phải từ chức, ông “chỉ tŕnh bày với TT Thiệu một cách rơ ràng, chính xác và khách quan về nhận định của người Mỹ đối với t́nh h́nh hiện tại”
Đại sứ Martin nói rằng ông “nói với TT Thiệu, sau khi phân tích và so sánh lực lượng hai bên và nếu cả hai điều dồn lực lượng vào trận đánh cuối cùng th́ các cân quân sự về phía VNCH rất bi quan. Kết luận của tôi là nếu Cộng sản quyết tâm đánh để tiêu diệt Sài G̣n th́ Sài G̣n không thể cầm cự được hơn một tháng. Dù sự pḥng thủ có khéo léo, dũng cảm và quyết tâm đến đâu chăng nữa th́ cũng không thể kéo dài quá ba tuần lễ.
“Tôi nói, theo ư kiến của tôi th́ Hà Nội muốn giữ Sài G̣n nguyên vẹn chứ không muốn Sài G̣n trở thành một đống gạch vụn khi họ chiếm đóng. Tuy nhiên không ai biết được một cách chắc chắn rằng Hà Nội sẽ không biến Sài G̣n thành b́nh địa nếu mà không có một sự thương thuyết nhằm vào việc đ́nh chiến” (ghi chú: Graham Martin: Bản Điều Trần Tại Ủy Ban Ngoại Giao của Hạ Viện Hoa Kỳ tại Washington ngày 22 tháng 1 năm 1976)
ĐẠi sứ Martin nói trắng rằng đây là một việc mà chỉ có một ḿnh TT Thiệu mới có quyền quyết định, tuy nhiên ông Đại sứ cũng “nhắc khéo” TT Thiệu là đa số người Việt Nam đều quy trách ông Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước sự thăm bại quân sự trong hơn một tháng qua, đa số người Việt Nam không tin rằng ông Thiệu c̣n có đủ khả năng lănh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng nầy và họ tin tưởng rằng nếu ông Thiệu ra đi th́ việc thương thuyết với phe Cộng sản sẽ dễ dàng hơn.
Tổng Thống Thiệu hỏi Đại sứ Martin rằng nếu ông ra đi, liệu quốc hội Hoa Kỳ có thay đổi ư kiến mà bỏ phiếu chấp thuận viện trợ bổ túc cho VNCH hay không th́ Đại sứ Martin trả lời rằng nếu cách đây vài tháng, việc đó có thể giúp VNCH có thêm vài ba phiếu tại quốc hội Mỹ, tuy nhiên đó là việc đă qua. Đại sứ nói thêm rằng “giả thử như quốc hội Mỹ chấp thuận viện trợ bổ túc cho VNCH đi nữa th́ sự viện trợ đó cũng không thể đến kịp thời để thay đổi t́nh h́nh quân sự tại miền Nam”
Thật ra th́ khoảng 10 ngày trước đó, vào ngày 10 tháng 4, TT Hoa Kỳ Gerald Ford trong một bài diễn văn được truyền h́nh trên toàn nước Mỹ đă cho biết rằng ông đă yêu cầu quốc hội cung cấp 722 triệu đô la viện trợ quân sự bổ túc cho VNCH theo đề nghị của Đại Tướng Frederick Weyand và c̣n xin thêm 250 triệu nữa để cung cấp thực phẩm, thuốc men và cứu trợ cho người tỵ nạn, tuy nhiên đề nghị đă bị Thượng Viện lúc bấy giờ do Đảng Dân Chủ kiểm soát ngâm tôm, không cứu xét.
Qua ngày 16 tháng 4, trong một bài diễn văn đọc trước “Hội Các Nhà Biên Tập Báo Chí Hoa Kỳ (American Society of Newspaper Ediors), TT Ford đă lên án quốc hội bội ước không giữ đúng sự cam kết và nghĩa vụ trợ giúp cho VNCH trong khi Liên Xô và Trung Cộng lại gia tăng nổ lực viện trợ cho đồng minh của họ là Cộng sản Bắc Việt. Dùng ngôn từ của giới mộ điệu football, TT Ford nói rằng: “Tôi cảm thấy muốn phát bệnh khi mà trong hiệp chót (của trận football) nước Mỹ đă không có một nổ lực đặc biệt nào, không có một chút cam kết dù là nhỏ nhoi trong việc viện trợ kinh tế và quân sự mà VNCH cần phải có để có thể tránh được t́nh trạng bi thảm nầy”
Ngày hôm sau 17 tháng 4, Tiểu ban Quân vụ của Thượng Viện Hoa Kỳ do Đảng Dân Chủ kiểm soát biểu quyết không chấp thuận bất cứ viện trợ quân sự bổ nào cho VNCH, điều nầy có nghĩa là vấn đề viện trợ quân sự cho VNCH sẽ không c̣n được đưa ra cứu xét trước Thượng Viện Hoa Kỳ nữa.
Qua ngày 18 tháng 4, quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật về viện trợ quân sự tài khóa 1976 trên 3 tỷ đô la dành cho nhiều nước trên thế giới, nhưng trong số những quốc gia nhận được viện trợ không có VNCH. Như vậy có nghĩa là sau ngày 30 tháng 6 năm 1975, dù có c̣n tồn tại, VNCH cũng sẽ không c̣n nhận được một số tiền viện trợ nào dành cho quân sự nữa, không c̣n ngân khoản nào để mua súng đạn, nhiên liệu và cũng không c̣n để trả lương cho quân đội nữa.
Sau khi VNCH bị Cộng sản tiếp quản, Đại sứ Graham Martin đă điều trần với quốc hội rằng: “Tôi nói với TT Nguyễn Văn Thiệu rằng kết luận của tôi là dù các sĩ quan trong quân đội vẫn c̣n phải tiếp tục chiến đấu, nhưng gần như hàu hết các vị tướng lănh của ông Thiệu đều tin rằng đó là một cuộc chiến vô vọng, trừ khi mà bên cạnh sự chiến đấu đó phải bắt đầu khởi sự tiến tŕnh thương thuyết. Tôi nói với ông Thiệu rằng các tướng lănh tin tưởng rằng tiến tŕnh đó không thể nào được khởi sự trừ khi ộng Thiệu ra đi hoặc là ông Thiệu phải thực hiện ngay tiến tŕnh thương thuyết đó với phe Cộng sản. Tôi nói tôi có cảm tưởng rằng nếu ông Thiệu không từ chức ngay tức khắc th́ các tướng lănh của ông buộc ông phải ra đi”
Sau khi Đại sứ Martin nói hết những điều cần nói. Tổng Thống Thiệu cam kết với ông Martin là ông “sẽ làm bất cứ những ǵ mà tôi nghĩ rằng có lợi nhất cho đất nước của chúng tôi.*123 (ghi chú: The Vietnam Experience, sđd, trang 136)
MỘT NGÀY CHỦ NHẬT CĂNG THẲNG CHO TT NGUYỄN VĂN THIỆU KHI BỊ HOA KỲ QUAY LƯNG BỎ RƠI.
"Làm kẻ thù của Mỹ th́ c̣n sống , làm Đồng Minh của Mỹ và chịu sự chi phối của Mỹ là sẽ chết không kịp ngáp...Hỡi các nước lệ thuộc Đế Quốc Mỹ hôm nay hăy nh́n VNCH ngày xưa mà rút ra một bài học cho chính ḿnh..."
hihiii
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
aka47
member
REF: 535428
04/24/2010
|
AK yêu cầu Quí Vị miễn góp ư.
Xin để cho AK "kể" hết 10 ngày cuối cùng của VNCH chỉ một Topic thui.
Một tài liệu sưu tầm có giá trị.
Cảm ơn nhiều.
hihii
|
|
aka47
member
REF: 535429
04/24/2010
|
NGÀY THỨ HAI
21 tháng 4/1975.
Hôm nay Ông Thiệu Từ Chức.
Sau đêm suy nghĩ, trưa ngày hôm sau, thứ Hai 21 thánng 4, TT Thiệu mời Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tá Trần Thiện Khiêm, cưu thủ tướng, đến Dinh Độc Lập và thông báo với họ rằng ông sẽ từ chức. Tổng Thống Thiệu kể lại cho hai nhân vật nầy cuộc hội kiến với đại sứ Pháp và đại sứ Hoa Kỳ ngày hôm trước và nhận mạnh rằng cả hai ông đại sứ đều không chính thức khuyến cáo ông từ chức, tuy nhiên v́ t́nh h́nh quân sự đă trở nên vô vọng và ông cảm thấy rằng ông không c̣n có thể phục vụ đất nước hữu hiệu được nữa cho nên ông phải từ chức. TT Thiệu nói với cụ Trần Văn Hương và Đại Tướng Trần Thiện Khiêm rằng ông muốn bảo tồn tính hợp pháp của chế độ VNCH và do đó ông yêu cầu Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nhận lănh chức vụ Tổng Thống VNCH để cứu văn t́nh thế.
Tuy nhiên, trong một cuộc tiếp xúc qua điện thoại tại San Jose, cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đă cho người viết biết rằng trong phiên họp tại Dinh Độc Lập sáng 21 tháng 4 năm 75, chỉ có ba người đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng Thống Trần văn Hương và ông Nguyễn Bá Cẩn, Thủ Tướng Chính Phủ. Ông Thiệu ngồi giữa, PTT Hương ngồi bên phải và ông Cẩn ngồi bên trái, không hề có cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm như trong các tài liệu khác đă nói. Theo ông Cẩn th́ trong phiên họp nầy, TT Thiệu loan báo cho cụ Hương và ông biết rằng ông đă quyết định từ chức tổng thống VNCH và yêu cầu Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay thế ông theo đứng tinh thần hiến pháp 1967 (ghi chú: Mạn đàm qua điện thoại với cựu thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn tại San Jose, California, ngày 6/5/2002)
Trong cuốn hồi kư Đất Nước Tôi mới xuất bản gần đây, cựu thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết rơ hơn như sau:
“Sáng thứ Hai (21/4/75) tôi gọi điện thoại hỏi Đại Tá Cẩm, đổng lư Văn Pḥng của TT Thiệu để bàn công việc khẩn cấp, toàn là những tin bất lợi mà tôi thu nhận được trong hai ngày cuối tuần vừa qua, từ quân sự cho đến ngoại giao, ngoại viện v.v.. Nhưng Đại Tá Cẩm cho tôi biết nhiều lần là TT Thiệu đang họp với PTT Hương. Đại Tá Cẩm cũng cho tôi biết là trong ngày Chủ Nhật hôm qua, Đại sứ Martin đến thảo luận với TT Thiệu về t́nh h́nh nguy ngập của miến Nam và h́nh như TT Thiệu sẽ lấy những quyết định tối ư quan trọng.
“Sau cùng vào lúc 11 giờ trưa ngày 21 tháng 4, tôi được mời gặp TT Thiệu. Đến nơi, tôi nhận thấy không phải chỉ Tt Thiệu mà c̣n có thêm PTT Hương. Phiên họp vơn vẹn chỉ có ba người. TT Thiệu mở đầu là sau khi thảo luận với Đại sứ Martin, ông ta quyết định là từ chức và bàn giao trách nhiệm tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa cho Phó TT Trần Văn Hương theo đúng hiến định. Việc TT Thiệu từ chức, ông ta cho biết, là đế xem quốc hội Hoa Kư có thay đổi lập trường của Uy ban quốc Pḥng Thương Viện, tiếp tục quân viện cho Việt Nam để mở đường cho Hoa Kỳ và đồng minh thương lượng một một giải pháp chính trị mà phía Cộng sản Bắc Việt nhất quyết từ chối mọi cuộc thảo luận nếu TT Thiệu c̣n tại chức. Đúng là cả bạn lẫn thù đang ban cho miến Nam phát súng ân huệ cuối cùng. (ghi chú: Nguyễn Bà Cẩn, sách đă dẫn, trang 421)
Tuy cả hai ông Đại sứ Pháp Mérillon và Hoa Kỳ Martin đă thuyết phục TT Thiệu nên từ chức trong ngày Chủ Nhật nhưng TT Nguyễn Văn Thiệu cũng chưa có quyết định dứt khoát v́ dường như ông vẫn c̣n chờ đợi thái độ của các tướng lănh, ông vẫn c̣n chờ đợi xem các tướng lănh có c̣n ủng hộ ông trong việc ngồi lại ghế tổng thống hay không.
Trong cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết vào năm 1984, cựu Tổng Thống Thiệu đă tiết lộ với ông rằng trước khi quyết định từ chức, ông đă mời các tướng lănh đến Dinh Độc Lập để báo cho họ biết về cuộc hội kiến với đại sứ Hoa Kỳ ngày hôm trước: “Ông Thiệu kể cho tôi (năm 1984) là hôm sau ngày gặp ông Martin, ông đă mời các tướng lănh đến dinh Độc Lập-. Trong buổi họp ông cho họ biết về những chuyện Đại sứ Martin đề cập tới.Ông Thiệu nói nếu các tướng lănh cho rằng ông là một chướng ngại vật cho ḥa b́nh của đất nước th́ ông sẽ từ chức. Không ai phát biểu ǵ cả. Thế là đă rơ họ không muốn cho ông ngồi ghế tổng thống nữa. Giữa lúc đó, ông tuyên bố từ chức và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. (ghi chú: Nguyễn tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 389)
Như vậy có lẽ TT Thiệu đă tham khảo các tướng lănh một cách bán chính thức trước khi quyết định từ chức và khi không c̣n được họ ủng hộ nữa, khi ông thấy rằng: “thế là đă rơ họ không muốn ông ngồi lại ghế tổng thống nữa” th́ ông mới loan báo quyết định nầy với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm.
Frank Snepp, nhân viên CIA và cũng là tác giả cuốn Decent Interval tiết lộ rằng khi ông Thiệu nói chuyện với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (hay Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn) tại Dinh Độc Lập th́ bộ phận nghe lén của CIA ở ṭa đại sứ Mỹ nghe hết không sót một lời nào. Trùm CIA tại Sài G̣n là Thomas Polga sau đó đă ra lệnh cho phụ tá của ông là Thiếu Tướng Charles Timmes đến gặp Đại Tướng Dương Văn Minh ngay chiều hôm đó và hỏi thẳng ông Dương Văn Minh rằn nếu người Mỹ có cách loại ông Hương ra khỏi ghế tổng thống th́ ông Minh có sẳn ḷng đảm nhận chức vụ nầy để điều đ́nh với Việt cộng hay không? Địa Tướng Minh gật đầu nhận lời, ông bày tỏ sự tin tưởng rằng ông có thể thuyết phục “phe bên kia” và ông nói với tướng Timmes rằng ông cần gởi ngay một địa diện của ông sang Paris để thương thuyết ngay với phe công sản. Nghe ông Minh nói như vậy, tướng Timmes liến mở cặp lấy ngay một ngàn đô la tiền mặt trao cho ông Minh để mua vé may bay cho người nầy. Frank Snepp chú thích thêm là ông Minh không hề gởi người nào sang Paris, không dùng đến số tiền nầy và cũng không trả lại cho người Mỹ. Frank Snepp cũng cho biết thêm là Đại sứ Martin không hề hay biết ǵ về việc CIA cho người tiếp xúc với Dương Văn Minh trước khi ông Thiệu từ chức. (ghi chú: Frank Snepp: sách đă dẫn, trang 395)
Chiều hôm đó, ông Thiệu triệu tập hội đồng Na Ninh quốc Gia gồm có Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Binh, Tư Lịnh Cảnh Sát Quốc Gia, Thiếu Tướng Đăng Văn Quang, Phụ tá An Ninh, ngoài ra c̣n có thêm sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Văn toàn, Tư Lịnh Quân Đoàn II và Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lịnh Biệt Khu Thủ Đô dù rằng hai nhân vật nầy không phải là thành viên của HĐANQG. Trong phiên họp nầy, Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng ông sẽ từ chức và ông sẽ loan báo việc nầy với quốc dân đồng bào vào tối hôm đó.
Theo cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, lúc đó đang giữ chức Tổng Trưởng Quốc Pḥng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn và không được mời dự trong phiên họp nầy, Đại Tướng Cao Văn Viên đă kể lại với ông rằng ông Thiệu nói: “Lư do thứ nhất mà ông từ chức là v́ quân đội đưa ông lên ghế tổng thống năm 1967 th́ bây giờ ông phải làm vừa ḷng quân đội v́ quân đội định đảo chánh. Lư do thứ hai là ông tar a đi để Hoa Kỳ viện trợ trở lại cho Việt Nam Cộng Ḥa”. Ông Thiệu không nói rơ tên người nào dự định đảo chánh nhưng theo lời Tướng Trần Văn Đôn th́ lúc đó ai cũng nghi là ông ta, tuy nhiên ông minh xác rằng “sự thật không đúng vậy”. Ông Thiệu cũng cho mọi người biết rằng ông sẽ trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương như hiến pháp đă quy định và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đă nhận lời.
Cựu Đại Tướng cao Văn viên cho biết thêm: “Trong buổi họp ở Dinh Độc Lập ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức. Theo lời giải thích của Tổng Thông Thiệu, Hoa Kỳ muốn ông từ chức và dù ông có muốn hay không th́ một số tướng lănh trong quân đội cũng sẽ ép buộc ông phải ra đi. Ông hy vọng sự từ chức của ông sẽ đem lại ḥa b́nh và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ giúp cho quân dội Việt Nam Cộng Ḥa. Theo hiến pháp, ông nhường chức lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cuối cùng, Tổng Thống Thiệu mong muốn quân đội, Cảnh sát quốc Gia ủng hộ vị tân tổng thống”.(ghi chú: Cao Văn Viên: sách đă dẫn, trang 219)
Chiều ngày 21 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh sài G̣n lien tục đọc thông cáo khẩn cấp của Phủ Tổng Thống mời tất cả các vị nghị sĩ và dân biểu, các thẩm phán trong Tối Cao Pháp Viện và các vị giám sát trong Giám Sát Viện đến Dinh Độc Lập dự phiên họp đặc biệt váo tối hôm đó, tuy nhiên thông báo không nói rơ lư do của phiên họp nầy. Đúng 7 giờ rưởi tối hôm đó, Tổng Thống Nguyễn Văn thiệu đă nói chuyện với đại diện cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng toàn the63 quốc dân đồng bào trong gần 2 tiếng đồng hồ và được trực tiếp truyền thanh và truyền h́nh trên toàn quốc.
Tổng Thốngh Thiệu tŕnh bày các diễn tiến từ Hiệp Đinh Paris 1973 đến việc cộng sản leo thang chiến tranh năm 1974, việc Cộng sản chiếm Phước Long mà không gặp phản ứng nào từ phía Hoa Kỳ để rồi từ đó tấn chiếm Ba Mê Thuột mở đầu cho sự thất thủ mien Cao Nguyên, miền Trung và Duyên Hải. Ông Thiệu lên án đồng minh Hoa Kỳ không giữ lời hứa tiếp tục viện trợ cho VNCH và ông nói rằng:
“Người Mỹ từ chối giúp đở cho một nước đồng minh, bỏ rơi một nước đồng minh như vậy là một điều vô nhân đạo. Các ông để cho chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo”
Ông Thiệu nói thêm rằng: “Người Mỹ thường hănh diện họ là những kẻ vô địch bảo vệ cho chính nghĩa và lư tưởng tự do trên thế giới và sang tới năm (1976) họ sẽ ăn mừng kỷ niệm 200 năm lập quốc, liệu người ta c̣n có thể tin tưởng vào những lời tuyên bố của người Mỹ hay không?”. quay sang t́nh h́nh quốc nội, ông Thiệu nói rằng: “Tại một vài nơi, quân đội của chúng ta đă chiến đấu rất dũng cảm nhưng tôi cũng phải nh́n nhận rằng có một vài cấp lănh đạo quân đội, không phải tất cả, đă tỏ ra hèn nhát. Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ tổng thống để lănh đạo cuộc kháng chiến tuy nhiên tôi không c̣n có thể cung cấp vũ khí đạn dược (v́ người Mỹ đă cúp viện trợ) để cho quân đội tiếp tục công cuộc chiến đấu. Nhân dân có thể ghét tôi và họ cho rằng tôi sẽ là một chướng ngại vật cho hoa b́nh và do đó tôi chỉ c̣n một giải pháp duy nhất, đó là từ chức”.
Ông Thiệu nói rằng ông từ chức không phải v́ áp lực của đồng minh, cũng không phải v́ những khó khăn về quân sự do Cộng Sản gây nên. Ông nói rằng các nhà lănh đạo một số cường quốc trên thế giới thường tự hào là họ đă vượt qua được sáu, bảy hay mười cơn khủng hoảng và sau nầy đă viết hồi kư tự đề cao ḿnh như những bậc anh hùng, như những chính khách vô cùng lỗi lạc, nhưng trong 10 năm lănh đạo miền Nam Việt Nam, từng năm, từng tháng, từ ngày, từng giờ ông Thiệu đă đương đầu với mọi khó khăn như lá số tử vi của ông đă nói rơ.
Ông Thiệu kết luận rằng:
“Tôi sẳn sàng nhận lănh sự phán xét và buộc tội của đồng bào nhưng sự sống c̣n của cả một dân tộc không có thể mang ra mặc cả như con cá ở ngoài chợ. Tôi từ chức nhưng tôi không đào ngũ”. Sau đó ngừng một giây đồng hồ, ông Thiệu nói tiếp “Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương”.
Sau khi dứt lời ông Nguyễn Văn Thiệu bước xuống mời Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên tuyên thệ nhậm chức. Trong bài diễn văn ngắn ngủi, tân Tổng Thống Trần Văn Hương nhắn nhủ với quân đội:
“Chừng nào các anh em c̣n tiếp tục chiến đấu, bao giờ tôi cũng đứng tôi cũng sẽ đứng bên cạnh các anh em. Đất nước chúng ta đang rơi vào cơn thảm họa nhưng ước vọng quư giá nhất của tôi là sẽ được đóng góp xương máu và chia xẻ mọi gian nguy của các anh em ở chiến trường. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”.
Sau đó cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngồi vào ghế của Phó Tổng Thống và tân tổng thống ngồi vào ghế của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước đó để nghe Đại Tướng Cao Văn Viên đọc nhật lệnh cho quân đội tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh kêu gọi các lực lượng cảnh Sát tiếp tục nhiệm vụ duy tŕ an ninh trật tự trên toàn quốc.
Trong khi lễ bàn giao đang diễn ra tại Dinh Độc Lập, các đơn vị cuối cùng c̣n lại của sư Đoàn 18 bắt đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đă chiến đấu vô cùng anh dũng chống lại một lực lượng chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần lễ. Khi cụ Trần Văn Hương nhậm chức tổng thống th́ quân Cộng sản đă tiến về tới Biên Ḥa và bộ máy của cơ quan t́nh báo Mỹ CIA cùng t́nh báo của Pháp cũng như Đại sứ là ông Jean-Marie Mérillon đă bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa cựu Đại Tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần Văn Hương nhằm thương thuyết với Cộng Sản.
Trong khi đó th́ từ Hà Nội, Ban Bí Thư Đảng đă gửi điện văn số 316-TT/TW ngày 21 tháng 4 năm 1975 cho tất cả các chi bô Đang chỉ thị về việc chọn lựa cán bộ để tiếp thu Sài G̣n và các tỉnh miền Nam. Chỉ thị nầy nói rằng ưu tiên dành cho các cán bộ quê ở miến Nam, nếu trường hợp thiếu th́ mới dùng cán bộ miền Bắc. Ngoài ra chỉ thị nầy cũng ra lệnh phải điều động cán bộ khẩn trương để sớm đi nhận nhiệm vụ. Chỉ thị nầy do Lê văn Lương, Ủy viện Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Tổ Chức đảng kư tên. (ghi chú: Văn kiện Đảng: trang 291-293)
Cũng trong ngày 21 tháng 4, Tố Hữu thay mặt cho Ban Bí Thư gởi bức điện văn số 178 gởi cho “Anh Bảy” Phạm Hùng, “Anh Sáu Mạnh” Lê Đức Thọ và Thường Vụ Trung Ương Cục về những chỉ thị của Bộ Chính Trị trong công tác tiếp quản thành phố Sài G̣n bao gồm 156 mục tiêu quân sự, 122 mục tiêu chính trị và hành chánh, 103 mục tiêu kinh tế v.v.. Chỉ thị nầy dài 7 trang giấy tuy nhiên chỉ là những chi tiết về việc tiếp thu các cơ quan tại Sài G̣n và quan trọng nhất là việc thành lập một Ủy Ban Quân Quản tại Sài G̣n-Gia Định cũng như là những ủy ban quân quản của 11 quận đô thành. Chỉ hti5 cũng chú trọng đến việc tổ chức ngay các đội quân cảnh, các đội cảnh sát, các đội tự vệ nhân dân ở địa phương để giữ ǵn an ninh trật tự, quản lư bọn ngụy quân, ngụy quyền, phát hiện bọn phản động lẫn trốn và trấn áp bọn phản cách mạng hiện hành. Bản chỉ thị không hề đả đo65ng ǵ đến chuyện thương thuyết hay ḥa hợp ḥa giải với thành phần thứ ba thứ tư nào cả. (ghi chú: Văn kiện Đảng: trang 294-299)
....................
Ông Thiệu từ chức có nghĩa là VNCH hết thuốc chữa rồi.
Ngày Thống Nhất đất nước chỉ c̣n tính từng ngày từng giờ mà thôi.
21 năn chiến đấu không nản , nhưng khi Mỹ quay lưng th́ chỉ có 55 ngày sụp đổ.
Một bài học cho những nước bị trị.
hihii
|
|
aka47
member
REF: 535430
04/24/2010
|
NGÀY THỨ BA 22 THÁNG 4/1975
Theo Oliver Todd trong cruel Avril th́ vào ngày 22 tháng 4 năm 1975, tức là sau ngày ông Nguyễn Vă Thiệu từ chức, Lê Duẩn nhân danh Bộ Chính Trị của Đảng Cộng sản Bắc Việt đă đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh tại Lộc Ninh, ra lệnh “Phải gia tăng các cuộc tấn công và đánh mạnh đánh mau trên khắp mọi mặt, mọi hướng. Bức điện văn cua Lê Duẩn kết luận rằng “tấn công chậm đi một ngày nào th́ sẽ đưa đến những hậu quả vô cùng ngiệm trọng trên cả hai phương diện quân sự cũng như chính trị” (ghi chú: Oliver todd: sách đă dẫn, trang 319)
Theo nhận định của Oliver Todd th́ dường như Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Bắc Việt sợ rằng nếu t́nh h́nh chính trị cứ kéo dài th́ trong thời gian nầy có thể sẽ có những sự can thiệp của quốc tế như hồi năm 1954 khiến cho Việt Minh đă phải chấp nhận một giải pháp chia cắt ở vĩ tuyến 17 thay v́ một chiến thắng toàn diện.
Trong bức điện văn gởi lúc 15 giờ 30 ngày 22 tháng 4 năm 1975 cho “anh Tuấn”( Văn Tiến Dũng) “anh Sáu” (Lê Đức Thọ) “anh Bảy” (Phạm Hùng) và “anh Tấn” (Lê Trọng Tấn) Lê Duẩn cho biết rằng sau khi nghe ông Thiệu từ chức, Bộ Chính Trị đă họp và “nhất trí nhận định và đề ra chủ trương như sau:
“Nguyễn Văn Thiệu đă phải từ chức. để làm chậm lại cuộc tấn công của ta vào Sài G̣n, Mỹ Ngụy đă lập chính phủ mới, đưa ra với ta đề nghị ngưng bắn, đi đến một giải pháp chính trị ḥng cứu văn t́nh thế thất bại hoàn toàn của chúng. Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài G̣n đă chín mùi.
Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc nầy là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị.
Các anh ra lệnh ngay cho các hướng hành động kịp thời, đồng thời chỉ thị cho khu Ủy Sài G̣n-Gia Định sẵn sàng phát động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tấn công của quân đội.
Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng.” (ghi chú: Văn kiện Đảng, trang 300-301)
Tuân lệnh của Bộ Chính Trị, với tư cách là Tổng Tư Lệnh chiến Trường Miến Nam, Văn Tiến Dũng đă ban lệnh cho tất cả các đơn vị của Cộng sản Bắc Việt từ Chiến khu C, Chiến khu D, Khu Tam Giác Sắt ở Miền Đông, cũng như các đơn vị vùng đồng bằng Sông Cửu Long và vùng Cà Mâu phải khởi sự chuẩn bị tấn công vào Sài g̣n và các tỉnh.
Sau khi ông Thiệu từ chức và sau khi nhận lệnh của Bộ Chính Trị, Ban Thường Vụ của Trung Ương Cục Miền nam đă gởi ngay một thông tri số 10/TT ngày 22 tháng 4 năm 1975 cho tất cả mọi cán bộ và cơ sở tại miền nam nguyên văn như sau:
1. Do những thắng lợi dồn dập của ta và trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngụy quyền Sài G̣n, đế quốc Mỹ đă ép Thiệu từ chức ḥng t́m biện pháp ngăn chận tổng công kích, tổng khởi nghĩa của ta, làm lạc hướng đấu tranh của quần chúng, mong tránh khỏi thất bại hoàn toàn của chúng.
Việc Thiệu từ chức và Hương lên thay trong t́nh h́nh hiện nay càng làm cho tinh thần ngụy quân, ngụy quyền sụp nhanh, nội bộ chúng càng mâu thuẫn phân hóa sâu sắc, càng có lợi cho ta tấn công nổi dậy và dành thắng lợi nhanh chóng ở thành thị và nông thôn.
V́ vậy các cấp đảng bộ và toàn thể quân dân ta cần phải:
-Nắm vững mục tiêu đánh đổ toàn bộ chính quyền địch, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
-Quyết đẩy mạnh cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa và quyết dành toàn thắng.
-Đả phá mọi tư tưởng chờ đợi, chập chờn, do dự.
2. Các cấp các ngành đều phải tập trung sức đẩy mạnh tấn công nổi dậy, đồng thời tiếp quản xây dựng tốt vùng giải phóng và phát triển các lực lượng cách mạng. Phải hết sức tranh thủ thời cơ và thời gian thuận lợi hiện nay để dành toàn thắng, không được chút nào do dự, chần chừ, dù là kẻ địch có đưa ra bất cứ đề nghị thương lượng nhân nhượng nào.
-Phải khẩn trương thực hiện các kế hoạch tấn công quân sự thật kiên quyết triệt để, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch và chiếm lĩnh các mục tiêu quy định.
-Thẳng tay phát động nhân dân nổi dậy dành chính quyền, nhanh chóng thảo gở hàng loạt đồn bót giải phóng nông thôn, nhanh chóng diệt ác phá kềm, mở rộng quyền làm chủ đưa lên phong trào khởi nghĩa để phối hợp với tấn công quân sự dành giải phóng các thành thị.
-đặc biệt là cần đẩy mạnh hơn nũa công tác vận động binh lính và nhân viên ngụy quyền, nhân thời cơ nầy làm tan ră lớn ngụy quân, ngụy quyền.
3. Tiếp theo việc Thiệu từ chức, sẽ c̣n có những thay đổi khác trong bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền. Các cấp cần theo dỏi sát các diễn biến nầy để liên tục tranh thủ những thời cơ cụ thể mà đẩy mạnh tấn công nổi dậy và kịp thời tấn công binh vận thật sắc bén dành thắng lợi mau lẹ và to lớn hơn nữa.
4. Ở Sài G̣n và các thành phố, phải kịp thời ngăn chận và đối phó với mọi âm mưu tuyên truyền lừa mị của Mỹ-Ngụy, đừng để quần chúng lạc hướng đấu tranh trong lúc nầy. Phải nhân cơ hội nầy mà đưa quần chúng nổi dậy dùng bạo lực chính trị và vũ trang kết hợp với binh tề vận mà diệt ác trừ gian dành quyền làm chủ ở cơ sở. Phải dựa vào sức đấu tranh cách mạng của quần chúng cơ bản mà lôi kéo quần chúng tiểu tử sản, trí thức tiến bộ đi theo con đường cách mạng, đừng để cho các lực lương trung gian lừng chừng gieo rắc ảo tưởng ḥa b́nh thương lượng trong quần chúng, kéo quần chúng đi lạc hướng đấu tranh đấu tranh cách mạng, chệch con đường tấn công nổi dậy dành toàn thắng.
Sau việc Thiệu từ chức, thái độ của quần chúng, của nhân viên chính quyền và binh lính địch, của các phe phái chính trị tiến bộ và phản động thế nào, cần báo ngay về KBN (bí danh của Trung Ương Cục) (ghi chú: Văn Kiện Đảng: trang 302-304)
Như vậy sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, CS Bắc Việt không hề có ư định thương thuyết với bất cứ người nào, bất cứ phe phái nào tại Miền Nam v́ mục tiêu tối hậu của Bắc Việt là tiến công chiếm Sài G̣n và cưởng chiếm toàn bộ Miền Nam bằng vơ lực mà thôi. Trong khi đó th́ tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại phải đương đầu với những áp lực chính trị và ngoại giao nhằm thúc đẩy ông trao quyền lại cho Dương Văn Minh v́ họ nghĩ rằng Dương Văn Minh có đủ điều kiện để thương thuyết với CS Bắc Việt.
Theo ông Trần Văn Đôn th́ ngày 22 tháng 4 “Theo lời đề nghị của Brocba, cố vấn chính trị và t́nh báo của ṭa đại sứ Pháp, ông đến gặp Dương Văn Minh, ông hỏi ông Minh: “Anh có thương thuyết với bên kia được không?” Ông Minh Trả lời: “Được. Nhưng phải thật lẹ, nếu không chúng ta không có hy vọng”.
Ông Minh cho biết Hà Nội chờ ông Minh nắm chính quyền rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với tân Tổng Thống Trần Văn Hương v́ ông Hương chậm chạp lại không thích ông Minh cho lắm nên kéo dài thời gian. Việc nầy rất là bất lợi, nhất là có tin Xuân Lộc thất thủ, VC đang tiến vào vây Sài G̣n”.
Sau đó dù đă quá khuya nhưng ông Đôn vẫn xin đến gặp đại sứ Martin tại nhà riêng và yêu cầu ông Martin đề nghị với Cụ Trần Văn Hương giao quyền cho Dương Văn Minh để thương thuyết với Hà Nội. địa sứ Martin hứa sẽ thuyết phục Tổng Thống Trần Văn Hương về vấn đề nầy. (ghi chú: Trần Văn Đôn: sách đă dẫn, trang 461)
Không hiểu ông Dương Văn Minh dựa vào đâu mà nói với Trần Văn Đôn rằng :”Hà Nội chờ ông Minh nắm chính quyền rồi sẽ thương thuyết” khiến sau đó ông Trần Văn Đôn phải chạy dôn chạy đáo hết ṭa đại sứ Pháp đến ṭa đại sứ Mỹ để vận động Cụ Hương từ chúc, “trao quyền” lại cho Dương Văn Minh trong khi Hà Nội đă quyết định “phải hết sức tranh thủ thời cơ và thời gian thuận lợi hiện nay để dành toàn thắng, dù là kẻ địch có đưa ra bất cứ đề nghị thương thuyết nhân nhượng nào”.
Ngoài đại diện của CIA là tướng hồi hưu Charles Timmers đến gặp Đại Tướng Dương Văn Minh sáng 21-4, tối hôm đó, sau khi tân Tổng Thống Trần Văn Hương nhận chức, Perre Brocband, đệ nghị cố vấn và cũng là trưởng ngành t́nh báo tại ṭa đại sứ Pháp đă có mặt tại tư gia của ông Minh, cũng được báo chí Việt Nam hồi đó đặt tên là “Dinh Hoa Lan” ở đường Hồng Thập Tự bên hông Dinh Độc Lập, để hướng dẫn, khuyến khích và nhất là giúp ông Minh chống lại những nổ lực chống phá ông ta lên nắm chính quyền một khi Cụ Hương bị áp lực phải từ chức. Trong ngày hôm đó, đại sứ Pháp Mérillon đă vào dinh Độc Lập đến hai lân để thuyết phục TT Trần Văn Hương nên từ chức.
Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin phải giữ khuôn mặt hợp hiến, hợp pháp của chính quyền VNCH và do đó ủng hộ sự duy tŕ vai tṛ tổng thống của Cụ Trần Văn Hương, ít ra là cũng trong thời gian ngắn. Tối 22 tháng 4, đại sứ Graham Martin thảo một bức điện văn dài gởi cho ngoại trưởng Henry Kissinger trong đó ông đại sứ đă phúc tŕnh những điểm chính sau dậy:
* Ông Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Pḥng, trước đây đă nói với đại sứ Martin rằng sau khi ông Thiệu từ chức th́ ông ta sẽ người toàn hảo để đóng vai tṛ thủ tướng. Tuy nhiên trong ngày hôm nay th́ ông Đôn lại nói với Đại sứ Martin rằng người mà Hà Nội mong muốn sẽ đại diện cho Miền Nam để thương thuyết là ông Dương Văn Minh, dĩ nhiên là phải có Trần Văn Đôn trong vai tṛ cố vấn. Theo ông Đôn th́ phe phật Giáo, phe Thiên Chúa Giáo và các giáo phái khác đều sẳn sàng ủng hộ giải pháp nầy. Ông Đôn hỏi Đại Sứ Martin nghĩ sao về giải pháp nầy th́ đại sứ Martin trả lời rằng ông không có một quyền hạn nào để ủng hộ hay phản đối giải pháp nầy v́ đây không phải là một vấn đề của người Mỹ mà lại là vấn đề của người Việt Nam. Ông Martin đă đề nghị với ông Tổng trưởng quốc Pḥng Trần Văn Đôn là ông ta nên gặp và thảo luận với người Pháp.
* đại sứ Martin cũng phúc tŕnh với Ngoại Trưởng Henry Kissinger rằng ông đă gặp Đại sứ Pháp Mérillon sau khi ông nầy hội kiến với TT Trần Văn Hương. Đại Sứ Mérillon xác nhận rằnng Bộ Ngoại Giao Pháp đang gây áp lực để thúc đẩy cho giải pháp dương Văn Minh, tuy nhiên Ông Trần Văn Hương phản ứng rất là chậm chạp, có lẽ v́ già yếu và bệnh hoạn. đại Sứ Martin hỏi Đại Sứ Mérillon rằng liệu có dấu hiệu nào cho thấy Hà Nội có thể sẽ chấp nhận nói chuyện với Dương Văn Minh hay không th́ ông Mérillon không trả lời thẳnng cho câu hỏi nầy. Dại Sứ Martin nói ông nghĩ rằnng người Pháp đă đề nghị với Hà Nội về giải pháp Dương Văn Minh nhưng Hà Nội chưa trả lời và người Páp nghĩ rằn Hà Nội đă mặc thị đồng ư. Người Páp cũng nghĩ rằng nếu có thể đưa ông Minh lên nắm chính quyền ngay th́ sau đó th́ đă một sự đă rồi và Hà nội sẽ khó mà phản đối.
* Đại Sứ Martin nói rằng Thủ Tướng Nguyễn BÁ Cẩn đă được TT Trần Văn Hương yêu cầu ngồi lại xử lư thường vụ, tuy nhiên ông cẩn th́ muốn ra đi. Đại Sứ Martin cho biết ông đă nói thẳng với những người muốn ra đi rằng Ṭa Đại Sứ Mỹ không có sẳn phi cơ, phải đến cuối tuần (26-27 tháng 4) mới có. Ngoài ra, Đại Tướng dương Văn Minh cũng có cho Tướng Timmes hay rằng một số sĩ quan người Bắc thuộc phe Tướng Kỳ đang chuẩn bị chống lại Ông Minh, ông Đại sứ đă cử người đến gặp ông Kỳ và nói với ông ta rằng người Mỹ muốn t́nh h́nh tại Sài G̣n phải yên tĩnh cho đến cuối tuần tức là ngày Chủ Nhật 26 hay 27 tháng 4 năm 75.
- Đại Sứ Martin cũng phúc tŕnh thêm rằng đại Sứ Mérillon đă vào Dinh Độc Lập hai lần trong ngày để gặp TT Trần Văn hương vào lúc 4 giờ chiều nhưng không đạt được kết quả nào. Ông Mérillon đă yêu cầu ông Đại sứ Mỹ nên thúc đẩy để TT Hương từ chức. Sau đó, TT Hương đă mời ĐS Martin vào gặp ông vào lúc 5 giờ chiều và đă nói chuyện với ông Martin với tư cách như là bạn bè. TT Hương hỏi ư kiến ông Martin về Dương Văn Minh nhưng ông ĐS Mỹ nói rằng chưa hề có dịp gặp ông Dương Văn Minh chỉ nghe nói nhiều về những tham vọng của ông nầy mà thôi. ĐS Martin nói với TT Trần Văn Hương rằng nhóm “lực lương thứ ba” cũng như là một vài tướng lănh có thể ủng hộ ông Minh và ông Hương có vẻ đồng ư với ông đại sứ. Vấn đề quan trọng là liệu cộng sản có chấp nhận nói chuyện với ông Minh hay không và TT Trần Văn Hương đề nghị ĐS Martin nên thăm ḍ với ông Đại Sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến về vấn đề nầy.
ĐS Martin cho biết là trong cuộc hội kiến nầy, TT Hương cho thấy ông ta rất b́nh tĩnh, có lúc ông ta quay sang nói chuyện thi ca với ông Brunson McKinley, thông dịch viên tiếng Pháp của ĐS Martin. TT Trần Văn Hương cũng có tâm sự với ông Martin rằng: “Nếu tôi phải làm Pétain của Việt Nam th́ ít ra tôi cũng sẽ phải đóng vai tṛ đó trong danh dự và đúng với phẩm giá”. (si je dois être le Pétain du Vietnam, je serai au moins dans l’honner et la dignité) (ghi chú: Oliver Todd: sách đă dẫn, trang 324)
* ĐS Martin phúc tŕnh với NT Kissinger rằng sau khi từ giả TT Hương, ông đă mời ĐS Ba Lan đến nói chuyện vào lúc 8 giờ tối ngày 22 tháng 4-75. ông Martin nhận xét rằng ông ĐS Ba Lan là một đảng viên cộng sản cứng rắn nhưng đồng thời cũng là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. ĐS Martin nói với ông ĐS Ba lan về mối ưu tư của TT Trần Văn Hương và nhờ ông ta thăm ḍ với Hà Nội thử xem họ có chấp nhận vai tṛ của Dương Văn minh hay không. ĐS Ba Lan là người thận trọng và ông ta trả lời rằng ông ta sẽ xin phép chính phủ Ba lan để xúc tiến việc nầy. ĐS Martin nói rằng ông không tin ông ĐS Ba Lan sẽ trả lời cho ông ngay trong ngày hôm sau.
TT Trần Văn Hương Cho Phép Thả Bom CBU ở Xuân Lộc.
Ngay sau khi Cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, trong ngày 22 tháng 4, Trung Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III đă yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên xin với Hoa Kỳ yểm trợ cho Vùng 3 một phi vụ B52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Đại Tướng Viên biết rơ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối. Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại Tướng Federick Weyand và phụ tá Bộ Trưởng quốc Pḥng Hoa Kỳ Von Marbod đă xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU-55. Loại bom nầy c̣n được gọi là “bom dầu” (fuel bomb), loại bom có sức công phá và sát hại mạnh nhất trong các loại vũ khí của Mỹ. Sau khi được thả xuống, bom sẽ nổ tung ra thành hàng trăm trái bom nhỏ khác, mỗi trái nhỏ nầy sẽ tạo thành một bức màn như dầu hỏa có chiều rộng khoảng 17 mét và bề dày chừng 3 mét là đà trên mặt dất rồi sau đó sẽ nổ tung gây ra một áp suất khoảng 300 cân Anh trên một inch vuông (300 pounds per square inch) và hút hết khối lượng oxygen ở dưới đất, ở rong buồng phổi của tất cả mọi sinh vật, dù là ở dưới hầm sau cũng không thở được.
13 ngày sau khi đă anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của Cộng Sản Bắc Việt, các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 đă rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Cá nhà báo ngoại quốc đă khen ngợi cuộc rút quân nầy là đă “được hoạch định và thi hành rất hay” và các đơn vị nầy về đến Biên Ḥa th́ chỉ bị thiệt hại chừng 30% quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng địch đông gấp bốn, năm lần. Bộ Tổng Tham Mưu đề nghị lên TT Trần Văn Hương xin xử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của CS Bắc Việt và chính TT Trần Văn Hương đă chấp thuận cho phép Không quân VNCH thả những trái bom nầy.
Với sự trợ giúp về kỷ thuật của các chuyên viên thuộc DAO (Văn Pḥng Tuy Viên quân Sự Hoa Kỳ), Không Quân VNCH đă gằn loại bom nầy lên một chiếc phi cơ C-130 xuất phát từ căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bay lên thả xuống vùng Xuân Lộc, nói mà các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 vừa mới triệt thoái tối hôm trước. Trái bom CBU-55 nầy được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh Sư Đoàn 341 của CSBV lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía Tây Bắc thành phố xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội BV bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đă la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đă xử dụng loại vũ khí hóa vi quang (Chemical-Biological-Radiological weapons) một cách bất hợp pháp. Trung Hoa Cộng Sản cũng tiếp tay Hà Nội lên án Hoa Kỳ vô cùng mạnh mẽ về việc đă xử dụng loại vũ khí giết người ghê gớm nầy.
Theo Frank Snepp th́ dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không quân Hoa Kỳ cũng có trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Cộng sản kiểm soát quanh thị trấn Xuân Lộc hằng chục trái bom “daisy cutters”, tên thông dụng của loại bom BLU-82 tức là loại bom dùng để khai quang băi đáp cho trực thăng nặng khoảng 15,ooo cân Anh tức khoảng 7 tấn rưởi cùng với hàng loạt bom 500 cân anh gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho cộng quân. (Sau 1975, cộng sản t́m được 3 trái bom BLU-82 chưa xử dụng và cho triển lăm tại Sài G̣n). Chính tân Tổng Thống Trần Văn Hương là người cho phép Không quân VNCH thả những trái bom hạng nặng nầy xuống đầu quân CSBV tại vùng xuân Lộc.
Frank Snepp nói rằng có một số phi cơ của Hoa Kỳ thuộc loại wild Weasel (Con Chồn Hoang) đă được xử dụng trong việc tấn công các đơn vị hỏa tiễn pḥng không lưu động của CSBV đang hoạt động trong vùng đông bắc Vùng 3 Chiến Thuật. Wild Weasel là biệt danh dành cho các loại chiến đấu cơ F-105 hoặ F-4 được trang bị với những dụng cụ điện tử đặc biệt ECM (electronic counter-measures) nhằm vào khám phá các địa điểm đặt hỏa tiển pḥng không SAM của Việt Cộng và dùng phi đạn không địa tiêu diệt các giàn rada điều khiển các hỏa tiển nầy. Văn pḥng CIA Sài g̣n không hề được thông báo về việc nầy và Ṭa Bạch Ốc cũng không muốn cho ai hay biết ǵ về cvie65c phi cơ của Không Lực Hoa Kỳ lại đă được sử dụng tại chiến trường Miền Nam Việt Nam trong mấy ngày cuối tháng 4 năm 1975 nầy. (ghi chú: Frank Snepp: sách đă dẫn, trang 416)
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên th́ “cuối tháng 2 năm 1975, qua những lần viếng thăm Sài G̣n của Phụ Tà Bộ Trưởng quốc Pḥng Eric Von Narbod và Đại Tướng Frederick weyand, Bộ Tham Mưu QLVNCH có xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam cộng Ḥa những loại bom chiến lược mà không quân có thể sử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là loại bom có biệt danh là “Daisy Cutter”, nặng 15,000 pounds tức khoảng trên 7 tấn. Không Quân Hoa Kỳ dùng bom nầy để phá rừng, làm băi đáp cho trực thăng trong cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên để huấn luyện sử dụng bom trong ṿng một tuần.
“Giữa tháng 4, 3 trái được chở đến và cuối tháng 4 thêm 3 trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn Không quân Việt Nam gắn ng̣i nổ và cách chuyển vận bom trên phi cơ, tuy nhiên người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái phi cơ lại không đến. Trong t́nh trạng khẩn trương của chiến trường và sự nguy hiểm khi phải tồn trử loại bom nầy ở phi trường Tân Sơn Nhất hay Long B́nh, Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư Lệnh Không quâ quyết định tuyển chọn một phi công Việt Nam có kinh nghiệm để đảm nhiệm việc thả bom. Chiếc C-130 và quả bom Daisy Cutter” cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau 20 phút lại phải hạ cánhv́ một lư do kỷ thuật không quan trọng, nhưng phi cơ lại cất cánh 30 phút sau đó.
“Vào một giờ sáng, phi cơ thả trái bom “Daisy Cutter” thả trái bom đầu tiên xuống một địa điểm cách Xuân Lộc 6 cây sô về hướng tây bắc. Thành phố xuân Lộc bị rúng động như bị động đất, tất cả đèn điện bị tắt và truyền tin của địch ngưng hoạt động: bộ tư lịnh sư đoàn 341 của CSBV bị tiêu diệt. Tinh thần binh sĩ VNCH phấn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh ở mặt trận Xuân Lộc hỏi “Bộ Tổng Tham Mưu có c̣n nhiều loại bom đó không?”. Tin đồn loan truyền nhanh chóng ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom “nguyên tử”. CSBV lên tiếng chửi rũa VNCH và Hoa Kỳ đă sử dụng vũ khí tàn phá chiến lược” (ghi chú: Cao Văn Viên: sách đă dẫn, trang 201-202)
Dường như ngày hôm đó Hà Nội vẫn không nhận được báo cáo nào của Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ Chí Minh về những tổn thất do bom CBU gây ra và Hà Nội chỉ biết được tin nầy qua một hảng thông tấn của Pháp. Ngay hôm đó, Vơ Nguyên Giáp đă nhân danh Bộ Chính Trị gởi cho “anh Sáu” (Lê Đức Thọ), “anh Bảy” (Phạm Hùng) “anh Tuấn (Văn Tiến Dũng), “anh tấn” (Lê Trọng Tấn) và “anh Tư Nguyễn” (Trần Văn Trà) bức điện văn mang số 94B ngày 23 tháng 4 năm 1975:
“1- Tin AFP chiều 23-4 cho biết địc dùng loại bom ngạt đầu tiên thả ở khu vực giữa Biên Ḥa và xuân Lộc bằng 5 máy bay C-130 và có hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang trên trận địa. Có thể chúng đă dùng loại bom ngạt CBU-55 mà tên Uâyen (Tướng Weyand) đă đề nghị; cũng có thể chúng tung tin để uy hiếp ta, thúc ép ta đi vào thương lượng. Trong trường hợp nào ta cũng phải thực sự đề pḥng.
2- Các anh cho kiểm tra nắm được tin ǵ cụ thể th́ điện ngay cho biết. Cần nhắc lại và phổ biến rộng răi những chỉ thị pḥng độc pḥng hóa cho bộ đội. Cần chuẩn bị thêm những phương tiện ǵ th́ điện ngay cho biết.
3- anh ba (lê Duẩn) và Thường Vụ quân Ủy Trung Ương có ư kiến cách đối phó hiệu quả nhất là:
a/ Thực hiện chủ trương của Bộ chính Trị, phát động sớm cuộc tiến công làm cho hính thái bộ đội ta và địch ở vào thế tiếp cận xem kẽ.
Đối với các đơn vị tập kết ở xa địch th́ cần ngụy trang tốt nơi trú quân và có biện pháp pḥng độc pḥng hóa nghiêm ngặt.
b/ Để bảo đảm hành động nhanh chóng và chắc thắng th́ biện pháp tốt nhất là cho tri63n khai ngay các trận địa pháo 1130 và D.74 (nếu cần th́ dùng một lực lượng bao vây các vị trí của địch để mở đường cho pháo), đánh mạnh vào tân Sơn Nhất và các mục tiêu nội đô từ phía bắc và tây bắc cũng như từ phía nam Nuận Trạch (Nhơn Trạch). Như vậy vừa gây tổn thương nặng cho không quân địch hiện là chỗ dựa chủ yếu của chúng, vừa gây rối loạn trong hàng ngũ địch ở nội đô và làm suy sụp hơn nữa tinh thần chiến đấu của chúng, tạo điều kiện thuận lợi để ta tấn công vào nội đô, tiêu diệt và làm tan ră địch.
C/ Đối với các sân bay quan trọng khác như Cần Thơ, Vũng Tàu v.v… cần chỉ thị cho các bộ đội dùng các loại hỏa lực (pháo, cốii) và đặc công đánh phá mạnh.
4- Chính phù Cách Mạng Lâm Thời đă lên tiếng tố cáo dư luận quốc tế. Ta cũng đă đề nghị các tổ chức quốc tế lên tiếng tố cáo mạnh mẽ.
5- Nhận được Diện anh trả lời ngay.”
Văn (ghi chú: Văn Kiện đảng, trang 305-306)
Tuy nhiên dù có bom CBU nhưng một Sư Đoàn 18 không thể nào chống cự được với một lực lượng địch đông gấp bội, sau 13 ngày anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của quân CSBV, các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 đă rút khỏi xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Các nhà báo ngoại quốc đă khen ngợi cuộc rút quân nầy là đă “được hoạch định và thi hành rất hay” và khi các đơn vị nầy về đến Biên Ḥa th́ chỉ bị thiệt hại chừng 30 phần trăm quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng đông gấp bốn năm lần.
Kế Hoạch Mérillon.
Tại Paris, Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing tin rằng chính Phủ Cách Mạng Lâm thới Nam Việt Nam của Việt Cộng có thể có hy vọng đóng một vai tṛ nào đó trong t́nh h́nh chính trị tại Việt Nam và đo đó cần phải duy tŕ sự hiện diện của ngưới Pháp Tại Miền Nam. TT Giscard d’estaing cho mới Nghị sĩ Paul d’Ormano, đại diệnPhap1 Quốc tại hải ngoại đến phủ tổng thống. Nghị sĩ Paul d’Ormano vốn trước kia là chủ đồn điền tại Đông Dương và ông ta dự dinh95 sang viếng thăm Việt Nam, do đó TT Pháp đă yêu cầu ông nghị sĩ d’Ormano kêu gọi Pháp kiếu nên ở lại Việt Nam, đừng có bỏ chạy và TT d’Estaing cũng sẽ ra lệnh cho các viên chức người Pháp cũng phải ở lại. TT Giscard d’Estaing cũng lien lạc trực tiếp nhiều lần bằng điện thoại với DS Mérillon tại Sài G̣n để chỉ thị cho ṭa đại sứ Pháp xúc tiến kế hoạch thành lập một chính phủ lien hiệp giữa phe Mặt TRân Giải Phóng với những thành phần không cộng sản tại Sài G̣n càng sớm càng tốt để thương thuyết với CSBV.
Về phía ĐS Pháp tại Sài G̣n, ông Mérillon chủ trương thành lập một Miền Nam Việt Nam trung lập với đại diện của phe Mặt trận Giải Phóng Miến Nam, phe quốc gia và “phe ḥa hợp ḥa giải” của Dương Văn minh.
Trong cuốn hồi kư su nầy, ông tiết lộ rằng trung Tướng Cộng đă ủng hộ giải pháp nầy của người Pháp. Ông cho biết Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đă đánh điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là Trung Cộng sẳn sàng hợp tác với Pháp để “xây dựng một chính thể trung lập tại miến nam nếu có thành phần MTGPMN tham dự”. Đại Sứ Mériloon cũng cho biết hầu hết các quốc gia Á Châu, ngoại trừ Nam Dương, đều ủng hộ việc thành lập một nước Việt Nam đ́nh chiến trong trung lập hơn là một nước Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của Hà Nội. ĐS Mérillon cho biết sở dĩ Nam Dương chống lại giải pháp trung lập nầy v́ Nam Dương hận Trung Cộng đă đạo diễn vụ đảo chánh hụt tại quốc gia nầy năm 1965 nhưng ông tiết lộ rằng năm 1978, TT Nam Dương Suharto có gởi cho ông một bức thư tỏ sự hối tiếc là vào năm 1975 chính phủ Nam Dương đă có nhận xét si lầm về t́nh h́nh chính trị tại Đông Dương và đă không ủng hộ kế hoạch của ĐS Pháp tại Sài G̣n.
Theo ĐS Mérillon th́ Chu ân Lai đă đưa ra một danh sách gồm có Trương Như Tảng, Nguyễn Thị Binh, Đinh Bá Thi, Thiếu Tướng Lê Quang Ba và Trung Tướng Trần Văn Trà làm ṇng cốt cho thành phần thân Trung Cộng trong chính phủ trung lập tại Miền Nam để chống lại phe thân Nga do Lê Duẩn cầm đầu tại Hà Nội. ĐS Mérillon nói rằng Trung cộng “tha thiết muốn cứu sống Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để xây dựng ảnh hưởng của họ tại Đông Dương” và phe quốc gia th́ cũng muốn cứu Miền Nam không để cho rơi vào tay Cộng Sản Hà Nội, như vậy th́ cả hai quan niệm nầy đều cùng có một mục đích và c̣n có thể dàn xếp được.
Sáng ngày 22 tháng 4, ĐS Mérillon mời Dương Văn Minh đến ṭa đại sứ Pháp ở đường Hồng Thập Tự để thảo luận về giải pháp trung lập. Đại Tướng Minh đến gặp ĐS Pháp cùng một phái đoàn đông đảo gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu và, theo lời Mérillon, “nhiều nhân vật đang tập sự làm chính trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ” như Huỳnh Tấn Mẫm, bà Ngô Bá Thành, Ni sư huỳnh Liên, Lư Quư Chung, Hồ Ngọc cứ v.v…
ĐS Mérillon nhận xét rằng “tôi thấy ông Minh đă liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy, bắc Việt chưa biết đến họ, c̣n công lao của họ đối với Bắc Việt th́ cũng chỉ có việc chửi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Ḥa mà thôi”. ĐS Mérillon nói rằng: “Huỳnh tấn Mẫm và Ni sư Huỳnh Liên ai cũng thao thao bất tuyệt ca tụng ḥa b́nh, ca tụng Công sản v́ đánh hơi kẻ thắng là ai rồi. Riêng Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu th́ có vẽ già dặn hơn, ông đặt chữ “nếu” ở mỗi mệnh đề, chẳng hạn như ông nói “nếu chính phủ tương lai mà do ông làm thủ tướ`ng th́ viễn ảnh ḥa b́nh sẽ nằm trong tầm tay của dân tộc Việt Nam”. Tôi nói với họ rằng “không ai có thể chối cải được công lao của quư vị trong thiện chí nổ lực thành lập tân chính phủ, tuy nhiên thẩm quyền tối hậu gờ phút nầy nằm trong tay Hà Nội, nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian chứ không đóng vai tṛ chủ động”. ĐS Mérillon nói rằng sau đó ông đă lễ phép mời mọi người ra về chỉ giữ Tướng Minh ở lại. Trước khi ra về, ông Mẫu nói nhỏ riệng với ĐS Pháp bằng tiếng La Tinh, (có lẽ ông không muốn người khác nghe), rằng ông ta muốn được đi Pháp nếu chính phủ của ông không được Hà Nội công nhận.
ĐS Mérillon nói khi ông trở vào th́ Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi chờ với “nết mặt sung măn, tự hào như kẻ đang nắm vững thời cuộc” và ông đă mời ông Minh dùng cơm trưa để cùng bàn luận.
Theo kế hoạch của ĐS Mérillon th́ ông Minh sẽ đứng ra lập chính phủ với hai thành phần đồng đều: phe ḥa hợp ḥa giải của ông cùng với phe MTGP và trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp sẽ vận động các nước âu cha7u cùng các nước phi liên kết thừa nhận tân chính phủ Việt Nam và như vậy th́ có thể làm chậm lại đà tiến quân của CSBV. Sau đó, ông Minh sẽ cố gắng chỉnh đốn lại hàng ngũ quân đội để mặcc cả thế đứng cho phe quốc gia. Tân chính phủ của ông Minh và MTGP sẽ tuyên bố sẳn sàng thiết lập bang giao với Trung cộng và các nước XHCN kể cả Liên Xô. Trung quốc đă liên lạc với Pháp sẽ cử ngay đại sứ đến Sài G̣n trong ṿng 24 tiếng đồng hồ và sẽ viện trợ cho chính phủ Sài G̣n 420 triệu mỹ kim là số tiền mà họ hứa hẹn sẽ viện trợ cho Hà Nội. Sau đó, với sự sắp xếp của Pháp và áp lực của Trung Cộng, tân chính phủ sẽ đ̣i Hà Nội phải thi hành Hiệp Định Paris 1973.
ĐS Mérillon cho ông Monh biết nước Páp sẽ viện trợ cho tân chính phủ 300 triệu đồng Francs và đồng thời cũng sse4 vận động các quốc gia Âu châu khác môt ngân khoản độ 290 triệu mỹ kim nữa qua các chương tŕnh viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế và nhân đạo. Như vậy th́ tổng số tiền viện trợ quốc trế cho Miền Nam Việt Nam cũng không kém viện trợ của Hoa Kỳ trước đây là bao nhiêu và chính phủ trung lập có thể tồn tại được. ĐS Pháp cũng cho biết rằng Nguyễn Thị B́nh từ đầu đến cuối đă hợp tác chặt chẻ với người Pháp, bằng chứng là sau nầy, 17 ngày sau khi CSBV cưởng chiếm Miền Nam, bà ta đă tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc là Miền Nam sẽ ở trong t́nh trạng trung lập trong ṿng 5 năm trước khi tiến tới việc thống nhất với Miền Bắc” và có lẽ đây là một trong những lư do khiến bà ta bị thất sủng sau nầy.
Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi yên nghe ĐS Mérillon tŕnh bày kế hoạch của Pháp và nói với ĐS Mérillon rằng ông ta sẳn sàng thực hiện mọi điều trong kế hoạch nầy, ông chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất sau đây” “Thưa ông ĐS, dưới h́nh thức nào tôi sẽ thay thế ông Trần Văn Hương để thành lập nội càc mới thương thuyết với phía bên kia?”. Ông Mérillon trả lời rằng: “thưa Đại Tướng, hôm qua tôi có thảo luận với Cụ Trần văn Hương và Cụ đă đồng ư rằng sẽ trao quyền cho Đại Tướng nếu Đại Tướng có kế hoạch không để mất Sài G̣n”
Những người thân cận với Cụ Trần Văn Hương cho biết rằng sự thật th́ tân TT Trần Văn hương su khi nhận chức đă không hề nghĩ đến việc trao lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn minh chức vụ tổng thống nầy. quan niệm của vị tân tổng thống 71 tuổi nầy là phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ phần c̣n lại của Miền Nam và nếu thương thuyết th́ ít ra cũng phải ở trong tư thế mà đối phương có thể chấp nhận. Cụ cũng có ư kiến nếu cần th́ sẽ mời ông Dương Văn minh giữ chức vụ thủ tướng với nhiều quyền hạn để thương thuyết với phe công sản.
ĐS Mérillon cho biết rằng: “Khi chúng tôi giới thiệu Tướng Dương Văn Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam, Cụ Trần Văn Hương sửng sốt và tỏ lời phiền trách: “Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Nó là học tṛ tôi, tôi biết biết nó quá mà! Nó không phải là hạng người dùng được trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Tôi sẽ trao quyền lănh đạo cho nó nhưng nó phải hứa với tôi là đừng để Sài G̣n thua Cộng Sản”.
Theo hồi kư của ĐS Mérillon th́ “Chúng tôi giải thích với Cụ Hương là Bắc Việt rất sợ MTGP Miền Nam đoạt chiến thắng, công khai ra mặt nắm chính quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ để mà xoay chuyển t́nh thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lănh đạo, Bắc Việt sẽ viện cái cớ Việt Nam Cộng Ḥa không muốn ḥa b́nh rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội VNCH chưa kịp văn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức ḥa hoản mà thôi.
“Cụ Trần Văn Hương thông cảm, nhưng thở dài và kèm theo những lời tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô t́nh đè bẹp tinh thần chống Cộng sắt đá của Cụ. Cụ trần Văn Hương chủ trương nếu cần th́ cứ bỏ ngỏ thành phố Sài G̣n, rút lực lượng về Miến Tây rồi tổng động viên nhân lực, vật lực c̣n lại để tiếp tục chiến đấu chống lại Cộng Sản. Giải pháp nầy th́ sẽ tiếp tục đổ máu nhưng ít ra th́ Việt Nam Cộng Ḥa cũng không thua một cách quá mất mặt”
Mười năm sau, ĐS Mérillon đă viết trong hồi kư của ông rằng: “Bây giờ tôi mới thấy kế hoạch của Cụ Hương là đúng, nếu lúc đó các nhà lănh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, ở lại yểm trợ cho Cụ th́ có thể gở gạc được phần nào thể diện cho người quốc gia Miền Nam”
“Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói vào năm 1975: “Ông ĐS à. Tôi đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề ở lại đây và mất theo nước ḿnh” (ghi chú: Jean Marie Mérillon: Saigon Et Moi, Paris, 1985)
Trong ngày 22 tháng 4, Lê Duẩn đă gởi điện văn cho Văn tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Lê Trọng Tấn cho biết ư kiến của Bộp chính Trị nói rằng sau khi TT Thiệu từ chức th́ dường như quân đội Miền Nam đang: “điều chỉnh sự bố trí lực lượng để lộ ư định giữ cho được hành lang đường số 4 từ Sài g̣n đến Cần Thơ” và ra lệnh phải đối phó kịp thời.
....................
Vui hay buồn?
Nếu AK được ở trong thời khắc này th́ nói rằng "Vui" v́ đất nước sẽ không c̣n cảnh bom đạn nữa.
hihii
|
|
aka47
member
REF: 535431
04/24/2010
|
XIN MỜI ĐỌC TIẾP NGÀY 23-4-1975 ngày của 35 năm về trước.
................
NGÀY THỨ TƯ
23 THÁNG 4/1975
Hai ngày sau khi ông Thiệu từ chức, tại Washington DC, ĐS Liên xô dobrynin đến trao cho Ngoại trưởng Henry Kissinger một bản thông điệp của Tổng bí thư cộng sản Liên Xô Breznev, trong đó, theo diễn dịch của Ngoại trưởng Hoa Kỳ , th́ không những “phía Việt Nam (tức Hà Nội) bảo đảm với Mac Tư Khoa rằng họ không có ư định thiết lập những chướng ngại cho sự di tản của người Mỹ, họ c̣n cho thấy rằng họ không có sự ham muốn hạ nhục Hoa Kỳ, và rất sẳn sang thi hành bản hiệp định Paris”. Trong phần tái bút, Brezhnev c̣n bày tỏ sự hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ không có hành động nào để cho t́nh h́nh tại Đông Dương trở nên trầm trọng hơn”. Ngoại trưởng Kissinger đă cho chuyển nguyên văn bức thông điệp nầy sang Sài G̣n cho ĐS Martin, kèm theo lời b́nh luận của Kissinger. ĐS Martin nói rằng chưa bao giờ ông ngoại trưởng lại gởi cho ông đại sứ một văn thư có tính cách tối quan trọng như vậy” (ghi chú: Frank Snepp: sách đă dẫn, trang 417)
Trong ngày 23-4, Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đệ đơn từ chức lên TT Trần Văn Hương và tân TT đa yêu cầu nội các Nguyễn Bá Cẩn xử lư thường vụ cho đến khi có chính phủ mới. Vào thời điểm nầy, dư luận ở Sài G̣n ai cũng biết rằng các thế lực ngoại quốc muốn ông
Dương Văn minh lên làm tổng thống hay thủ tướng toàn quyền, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương lại muốn mời Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thành lập chính phủ.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là lănh tụ của phong Trào quốc Gia Cấp Tiến tức Đảng Tân Đại Việt, ông là người rất có uy tín trong giới trí thức cũng như ở trong giới quân chúng ở Miền Nam. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là người đă được ụ Trần Văn Hương dành cho cảm t́nh rất sâu đậm từ khi ông c̣n trẻ tuổi, khi ông đang hoạt động trong tổ chức Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn của ông Đỗ Văn Năng, một cơ quan ngoại vi của Đại Việt Quốc Dân Đảng vào hopi62 cuối thập niên 1940 và trong giai đoạn nầy Cụ Hương sống trong nhà ông Năng ở đường Bà Huyện Thanh Quan gần vườn Tao Đàn.
Trong lúc đó, về phía quân đội th́ lại có một nhóm sĩ quan bất măn với Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Theo Trần Văn Đôn th́ lúc 11 giờ sáng ngày 23-4, Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Đại Tá Nguyễn Huy Lợi, Đại Tá Vũ Quang và Đại Tá Trần Ngọc Huyến đă đến nhà ông và yêu cầu chỉ định người khác thay thế Đại Tướng Viên v́ ông nầy “không đủ khả năng, không làm đúng bổn phận,làm việc không hữu hiệu”. Ông Trần Văn Đôn lúc đó là Xử lư Thường Vuụ Tổng Trưởng Quốc Pḥng đă trả lời rằng “t́nh h́nh đă thay đổi, tự nhiên rồi cũng có người thay thế ông Viên”. Thực ra th́ ông Trần Văn Đôn đă biết rơ rằng Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không phục vụ với bất cứ tư cách nào trong một chính phủ do Dương Văn minh lănh đạo.
............
TT Trần Văn Hương
Cử Tướng Phan Ḥa Hiệp Đi Hà Nội.
Trong Decent Interval, Frank Snepp nói rằng “Trong khi quân đội CSBV đang chuẩn bị và thao dượt cho hành động cuối cùng của họ là tấn công chiếm Sài G̣n th́ ông Tổng Thống Trần Văn Hương cũng t́m cách tiếp xúc kín với phái đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất trong ngày hôm nay và ông đề nghị gởi một người trung gian đi Hà Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của Ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ” (ghi chú: Frank Snepp: sách đă dẫn, trang 433)
Tác giả Nguyễn Khắc Ngữ cũng có đề cập đến việc nầy như sau: “Thu xếp với Dương Văn Minh không xong, cụ Trần Văn Hương liền tích tự ḿnh lo việc điều đ́nh với Vệt cộng. Với sự giúp đỡ của Toà Đại sứ Hoa Kỳ, Trần Văn Hương đă cử một vị tổng trưởng đi theo chuyến bay liên lạc của Hoa Kỳ hàng tuần đi Hà Nội để xin điều đ́nh nhưng Hà Nội đă không chịu bằng cách không cho chiếc máy bay trên bạ cánh cho đến khi vị tổng trưởng kia rời máy bay.”
Các tác giả cuẫ bộ The Vietnam Experience cũng có đề cập đến vai tṛ của ông Tổng Trưởng này như sau: "ông Hương cũng không tin việc Cộng sản Hà Nội sẳn sàng chịu thương thuyết với Ông Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi sẽ chỉ tin vào việc đó sau khi tôi có đủ bằng chứng.” Ông Huơng cũng đưa ra một đề nghị hoà b́nh của ông, đó là đề nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội Đồng Quốc Gia Hoà giải, loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trong 9 ngày và đề nghị gởi Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp Tổng Trưởng thông tin trong nội các Nguyễn Bá Cẩn làm đặc sứ đại diện cho miền Nam đi Hà Nội. Cộng sản bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemlptuously), nhất là đề nghị về ngưng bắn.”
Trong một cuộc tiếp xúc với Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp, cựu Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, đồng thời cũng là cựu Trưởng phái Đoàn Việt Nam Cộng Hoà trong Uỷ Ban Liên Hợp 4 Bên hồi năm 1973, Tướng Hiệp đă cho người viết biết một vài chi tiết khá lư thú về chuyện này.
Tướng Phan Ḥa Hiệp nói rằng vào khoảng hai ngày sau khi TT Trần Văn Hương nhận chức (23 tháng 4), ông trở về nhà vào lúc đă khuya và được bà Hiệp cho biết là Văn Pḥng TT Trần Văn Hương đă gọi điện thoại nhiều lần v́ TT Hương muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến phủ Tổng Thống và sau đó đă được nói chuyện với TT Trần Văn Hương. TT Hương đă nói với Tướng Hiệp rằng Cụ muốn t́m một đường dây để đề nghị thẳng với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Cụ nói rằng chuyện thương thuyết này cần phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua Phái Đoàn Cộng sản Bắc Việt trong ủy Ban Liên Hợp 4 Bên là nhanh nhất, do đó Cụ chỉ thị cho Tướng Phan Hoà Hiệp liên lạc với Phái Đoàn Bắc Việt để thăm ḍ và nếu họ chấp thuận th́ Tướng Hiệp có thể đi ra Hà Nội, với tư cách là một nhân viên trong chính phủ (cabinet member) và đại diện cho chính phủ để mở đầu cho sự thương thuyết.
Tướng Hiệp nói rằng ông liên lạc với Phái đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm sau, 24 tháng 3 năm 1975, sẽ có một chuyến phi cơ C-13O đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài G̣n để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về Sài G̣n vào buổi tối hôm đó (đây là chuyến bay liên lạc cuối cùng giữa Sài G̣n với Hà nội). Tướng Hiệp vào phi trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt và nói thêm với họ rằng nếu Hà Nội đồng ư th́ ông sẵn sàng đi Hà Nội. Đại diện của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên v́ từ khi có những chuyến bay liên lạc Hà Nội-Sài G̣n sau Hiệp định Paris, có nhiều sĩ quan trong QLVNCH đă bay ra Hà Nội nhưng Tướng Hiệp th́ dù có được mời, ông không bao giờ nhận lời. Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhứt vào buổi tối th́ cho ông biết kết quả.
Tướng Phan Ḥa Hiệp nói với người viết rằng tối hôm đó ông suy nghĩ cặn kẻ và ông thấy rằng trong trường hợp mà ông được Cộng sản cho phép ra Hà Nội, rất có thề là khi ra đến ngoài đó th́ ông cũng có thể bị Cộng sản bắt giữ, tuy nhiên nếu có điều kiện thuận lợi th́ ông cũng cứ đi v́ đó là thi hành một nhiệm vụ mà Tổng Thống Trần Văn Hương giao phó. Sáng hôm sau ông yêu cầu người Mỹ di tản gia đ́nh ông sang Phi Luật Tân v́ trong trường hợp nếu Cộng sân Bắc Việt chấp thuận đề nghị của TT Hương th́ ông sẽ đi Hà Nội và nếu mà ông bị bắt th́ ít ra gia đ́nh của ông cũng đă được an toàn. Tướng Hiệp nói rằng chiều hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trong ủy Ban Liên Hợp 4 Bên từ Hà Nội trở về và cho ông biết rằng Hà Nội bác bỏ đề nghị thương thuyết của TT Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội c̣n nói thêm rằng Hà Nội đ̣i chính quyền Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện. (Đây là lư lẽ tự nhiên của kẻ chiến thắng...AK)
Đó là nổ lực duy nhất mà chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cố gắng t́m cách gửi đại diện ra Hà Nội để thăm ḍ nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này là tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cũng cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn c̣n có thể giàn xếp để cho hai phe Sài G̣n và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào đó. Tuy nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là Đại sứ Martin cũng không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker) cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ư định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói chuyện với nhau, dù lúc đó đă là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.
Trong cuốn "Khi Đồng Minh Bỏ Chạy," tác giả cho biết rằng:
“Ở phi trường về (sau hhi đưa cựu Tổng thống Thiệu lên phi cơ đi Đài Loan,) Đại sứ Martin cùng Đại sứ Jean Marie Ménllon lại tiếp tục công việc sắp xếp giải pháp chính trị. Ong Martin gửi cho Kissinger một điện văn cho biết vẫn c̣n có thể điều đ́nh giưă chính phủ Sài G̣n và Việt Cộng:
"Ngày 26 tháng 4, Kissinger gủi mật điện gạt đi liền:
-"ông đại sứ đă hiểu lầm ư kiền của tôi về các cuộc điều đ́nh với Việt Cộng. Tôi đă không nói đến giàn xếp giữa chính phủ Sài G̣n và Việt Cộng mà nói đến đến thương lượng giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng. Tôi muốn bất cứ cuộc thảo luận nào giữa Hoa Kỳ và Việt cộng cũng phải được diễn ra tại Paris.
"Vào giờ chót, Kissinger vẫn không muốn cho hai miền Bắc và Nam Việt Nam trực tiếp điều đ́nh với nhau mà không có sự kiểm soát của ông" ----(CHA NỘI "KÍT ĂN GIƠ" NÀY LÚC NÀY SAO VẪN C̉N NGANG NGƯỢC NHƯ VẬY???? AK mà GẶP CHA NỘI NÀY BI GIỜ AK CHO CHẢ 1 VIÊN NGAY TIM LIỀN...hihii)---
Cũng trong ngày này, theo Frank Snepp th́ cũng có một màn hỏa mù khác xảy ra. Frank Snepp nói rằng sáng sớm ngày hôm đó, Đại Tá Harry Summers, Phó Trưởng Phái đoàn Hoa Kỳ trong ủy Ban Liên Hợp 4 Bên tại Tân Sơn Nhứt đă đáp chuyến phi cơ liên lạc cuối cùng từ Sài G̣n đi Hà Nội, có lẽ đó là chuyến bay mà Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp nói đến trong đoạn trên. Trong chuyến bay này, một đại diện của Bắc Việt đă đến ngồi cạnh Đại Tá Summers và nói nhỏ với ông về một vài đề nghị riêng. Sau khi về đến Sài G̣n, Đại Tá Summers đă phúc tŕnh rằng người tiếp xúc với ông đă đưa ra ba "điều b́nh luận" (comments) đáng chú trọng, đó là: (l) ủy Ban Liên Hợp 4 Bên trong đó có cả Phái đoàn Hoa Kỳ gồm 15 người phải ở lại Miền Nam Việt Nam dù bất cứ chuyện ǵ xảy ra; (2) Pḥng Tuỳ Viên Quân sự của Hoa Kỳ (DAO) phải triệt thoái hoàn toàn và (3) Toà Đại sứ Hoa Kỳ phải thương thuyết với "tân chính phủ' về tương lai của sứ quán.
Sau khi Đại sứ Graham Martin đọc bản thông điệp của Tổng Bí Thư Brezhnev, xem báo cáo này của Đại Tá Harry Summers cùng với báo cáo của Đại sứ Hung Gia Lợi trong Ủy Ban Quốc Tễ là ông Đại sứ Toth, ông tin tưởng một cách lạc quan rằng cuộc vận động giữa Ngoại Trưởng Kissinger với lănh tụ Liên Xô Brezhnev đă mang lại kết quả và ông hy vọng rằng Hà Nội sẽ không có ư làm nhục Hoa Kỳ mà sẽ tiến tới một giải pháp chính trị.
Đó là giải pháp của Đại Sứ Pháp Merillon: TT Trần Văn Hương phải từ chức và trao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh.
...........................
Xong một ngày t́m mọi phương cách để cứu văn của chính quyền VNCH trước ngọn đèn sắp tắt v́ hết...dầu.
|
|
aka47
member
REF: 535432
04/24/2010
|
Hôm nay ngày 24-4 rồi , c̣n 5 ngày nữa là Dinh Đọc Lập thuộc về chính quyền cách mạng. Ngày trọng đại của Lịch Sử VN.
Xin mời đọc sự phản ứng thoi thóp của VNCH lúc bấy giờ khi Mỹ phản bội quay lưng.
...............
NGÀY THỨ NĂM
24 THÁNG 4/75
(Hôm nay TT Trần Văn Hương Tiếp Xúc Với Dương Văn Minh.)
Theo các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt Nam Nhân Chứng, Frank Snepp trong Decent Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril th́ hồi 10 giờ sáng ngày 24-4-75, qua sự trung gian của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm,Tổng Thống Trần Văn Hương đă đến gặp cựu Đại Tướng dương Văn Minh tại tư gia của Đại Tướng Khiêm trong cư xá sĩ quan tại Bộ Tổng Tham Mưu gần phi trường Tân Sơn Nhứt.
Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Trân Văn Hương lại cho người viết biết rằng Cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở Dinh độc Lập cũng như tại Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lư, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia của ông Minh trên đường Hồng Thập Tự như ông Minh muốn, do đó Cụ đă nhờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sắp đặt cuộc gặp gở nầy. Cụ Hương cũng không muốn việc nầy tiết lộ ra ngoài, do đó Cụ đă dùng trực thăng bay từ Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lư đến Bộ Tổng Tham Mưu và ngay cả hai người phi công cũng chỉ được lệnh bay lên Tổng Tham Mưu sau khi Cụ lên phi cơ.
Trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội ngày 26 tháng 4 năm 1975, TT Trần Văn Hương có nói rằng: “Trong các cuộc gặp gỡ tại tư thất của người bạn chung - bởi v́ họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại Tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự ḿnh tới nhà Đại Tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đă cùng nhau đến nhà một người bạn chung”
Trong cuộc tiếp xúc nầy, TT Trần Văn Hương đă yêu cầu Tướng Minh nhận chức Thủ tướng toàn quyền để thương thuyết với phe Cộng sản theo đề nghị của Đại sứ Pháp . TT Trần Văn Hương đă nói với Lưỡng Viện quốc Hội về việc gặp gỡ Tướng Dương Văn Minh rằng:
“Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy th́ xin anh v́ nước nhà, mọi tỵ hiềm đă qua, mọi sự không tốt đẹp đă xảy ra, xin anh vui ḷng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia”
Tuy nhiên Tướng Minh đă cương quyết từ chối và ngược lại ông đă yêu cầu Tổng Thống Hương từ chức, nhường chức vụ Tổng thống VNCH lại cho ông Minh để được toàn quyền nói chuyện với phe bên kia.
Cuộc tiếp xúc đó coi như là đă hoàn toàn thất bại và Cụ Hương trở về Phủ Tổng Thống. Theo vị sĩ quan tùy viên của TT Trần Văn Hương, đó là chuyến bay bằng trực thăng duy nhất kể từ khi Cụ nhận chức Tổng Thống và chuyến bay khứ hồi chỉ mất khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ chứ Tổng Thống Trần Văn Hương không có “bay ṿng ṿng khắp Sài G̣n – Chợ Lớn” như một vài người đă đồn đại sau nầy. (ghi chú: Cuộc phỏng vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của TT Trần Văn Hương)
Trong cuốn “Cuộc Đời của Tướng Nguyễn Khoa Nam”, ông Nguyễn Mạnh Tri, một tong những tác giả cuốn sách nầy đă được cựu TT Nguyễn Văn Thiệu dành cho một cuộc phỏng vấn tại San Jose ngày 22-10-2000. Trong cuộc phỏng vấn nầy, cựu TT Thiệu có nói như sau về việc ông bàn giao chức vụ tổng thống VNCH cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương:
“Khi tôi quyết định từ chức, tôi chỉ giao quyền lại cho Cụ Hương mặc dù tôi có nghe nói ông Dương Văn Minh muốn thay thế Cụ Hương. Tôi từ chức là v́ những lư do riệng của tôi và tôi nghĩ rằng đó là quyết định tốt nhất cho đất nước trong t́nh thế khó khăn lúc ấy. Tôi quyết định từ chức v́ bổn phận bắt buộc tôi phải làm như vậy. Tôi tin rằng giao lại cho Cụ Hương, chắc chắn Cụ Hương sẽ không bao giờ chịu trao quyền lại cho Việt Cộng, họa chăng là VC vào Dinh Độc Lập dí súng vào cổ ông. Ông thà chịu để địch bắt chớ không bao giờ kêu gọi quân dân trao quyền cho bọn chúng."
Có lẽ sau ngày 21 tháng 4 năm 1975, ông Thiệu là một trong số những người hiếm hoi ủng hộ cụ Trần Văn Hương. Ông Thiệu muốn Cụ Trần Văn Hương ngồi ở ghế Tổng thống v́ muốn bảo vệ cho quyền lợi của cá nhân của riêng ông, dù sao đi nữa th́ Cụ Trần Văn Hương cũng không thể nào đối xử “cạn tàu ráo máng” với ông Thiệu, c̣n các thế lực chính trị khác tại Sài g̣n th́ gần như hầu hết đều chống lại việc cụ Hương tiếp tục làm Tổng thống. Trước hết là Toà đại sứ Pháp v́ giải pháp của người Pháp là dùng lá bài Dương Văn Minh, toà đại sứ Mỹ th́ như trên đă nói chỉ muốn lo cho việc di tản ra khỏi Miền Nam và khoán trắng mọi sự sắp xếp cho người Pháp, tuy nhiên riêng Đại sứ Graham Martin th́ mong muốn Cụ Hương ngồi ở ghế Tổng thống thêm dăm ba ngày nữa để giữ cái bộ mặt hợp hiến của chế độ miền Nam, cựu Đại tướng Dương Văn Minh th́ chỉ muốn lên làm Tổng thống ngay để có đủ toàn quyền thương thuyết với "những người anh em bên kia" và cuối cùng là cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Pḥng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cùng một số tướng tá thân cận của ông ta.
Theo lời của Trung tứơng Trần Văn Đôn kể lại trong " Việt Nam Nhân chứng” th́ ngay ngày hôm sau khi Cụ Hương tuyên thệ nhậm chức, một số tướng lănh như Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn III Thiết giáp đă gọi điện thoại “khuyên" ông nên đứng ra lănh nhiệm vụ Thủ tướng. Đến ngày 25 tháng 4 th́ cựu Tổng thống Thiệu mời ông Đôn vào Dinh Độc lập và trong buổi gặp mặt này, ông Thiệu có nói với ông rằng "Ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận lănh đựơc trách niệm này Tôi đă nghĩ đến ông từ năm 1973 nhưng v́ tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với họ, nếu chịu thương thuyết th́ tôi đă mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi”. ông Thiệu gọi điện thoại cho Cụ Hương và “khuyên” Cụ rằng "Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ tướng toàn quyền th́ Cụ t́m một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Trần văn Đôn.
Cũng theo lời Trẫn Văn Đôn th́ đến 4 giờ 3O chiều 24 tháng 4, Tướng Khiêm gọi điện thoại cho ông Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy lănh tụ Phong trào Quốc gia Cấp tiến làm tân Thủ tướng. Cụ Hương biết giáo sư Nguyễn Ngọc Huy từ hồi thập niên 1940 trước khi sang Pháp du học và Cụ rất quư trọng ông Huy. Sau đó ông Đôn đến gặp Dương Văn Minh và ông Minh tha thiết yêu cầu ông Đôn giàn xếp thế nào để cho Cụ Hương đồng ư giao quyền lại cho ông ta càng sớm chừng nào tốt chừng đó để thương thuyết với phe bên kia.
Tướng Đôn nghĩ rằng nên có áp lực về phía quân đội để Cụ Hương chấp nhận giải pháp này và ông ta đă điện thoại mời hai Đại tướng Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên đến nhà ông Dương Văn Minh, tuy nhiên cả hai ông này không đến nhà ông Minh mà họ đến thẳng Dinh Độc Lập. Đại tướng Khiêm vào nói chuyện với Cụ Hương, kế đó là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và sau đó Tổng trưởng Quốc Pḥng Trần Văn Đôn cùng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên tŕnh bày về t́nh h́nh quân sự: ṿng đai Sài G̣n đang bị thu hẹp, đạn dược thiếu và tinh thần chiến đấu của binh sĩ quá sa sút.
Tổng thống Trần Văn Hương nói rằng ông chia xẻ với số phận của anh em quân nhân tại chiến trường, ông sẽ sống chết với anh em binh sĩ trong quân đội. Sau đó ông chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân lực VNCH, có nghiă là Tướng Cao Văn Viên có toàn quyền chỉ huy và điều động quân đội, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hoà do chính ông Thiệu nắm giữ. Đại tướng Cao Văn Viên phải miễn cưỡng nhận lời, tuy nhiên ông yêu cầu TT Trần Văn Hương một điều, đó là "nếu Tổng Thống phải giao quyền lại cbo Đại tướng Dương Văn Minh th́ tôi xin Tổng Thống cho tôi đựơc nghỉ dài bạn không lương v́ tôi không thể làm việc dưới quyền Dương Văn Minh". Theo lời Trần Văn Đôn th́ Tổng thống Trần Văn Hương chấp thuận lời yêu cầu này. Trước khi ra về, ông Đôn c̣n nói thêm với Cụ Hương rằng “Xin Cụ nghiên cứu lại v́ phía bên kia bọ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi."
Tối hôm đó, ông Đôn đến nhà Dương Văn Minh th́ đă có sự hiện diện của Nghị sĩ Nguyễn Vặn Huyền, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn toà đại sứ Pháp. Ông Minh cho ông Đôn biết là Cụ Hương không muốn từ chức, cố vấn Brochand tỏ ra thất vọng v́ ông ta cho biết Hà Nội nhất quyết không nói chuyện với bất cứ nhân vật nào ngoại trừ Dương Văn Minh. Ông Đôn trấn an nhóm này và nói rằng "ông Hương mới lên mà ép buộc ông phải từ chức th́ cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa c̣n có hiến pháp và quốc hội”. Nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền đồng ư và sau đó th́ cả ông Minh lẫn ông Vũ Văn Mẫu đều cho rằng ông Hương cố tŕ hoăn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận từ chức.
Lá Bài Trằn Văn Đỗ?
Vào cuối tháng 4 năm 1975, sau khi ông Nguyên Văn Thiệu từ chức, Tổng Thống Trần Văn Hương trong một tuần lễ ngắn ngủi kế nhiệm chức vụ Tổng thống theo hiến pháp đă gặp rất nhiều khó khăn trong việc t́m người để thương thuyết với Bắc Việt ngơ hầu t́m được một giải pháp ít bi thảm hơn cho miền Nam và cuối cùng đă phải "trao quyền" lại cho cựu Đại tướng Dương Văn Minh, một người mà hồi đó tại miền Nam người ta đồn rằng ông ta là người duy nhất có thể nói chuyện được với Cộng sản Bắc Việt. Sau ngày 30 tháng 4 th́ tất cả mọi người đều thấy rơ điều đó không đúng sự thật v́ trong hai ngày ngắn ngủi lên làm Tổng thống, Cộng sản không hề nói chuyện với Dương Văn Minh và cũng không bao giờ có ư định nói chuyện với ông ta cả. (AK: CỘNG SẢN KHÔN và LÁU CÁ THẬT , vậy mà HÔM NAY LẠI ĐỂ MẤT ĐẤT MẤT BIỂN cho TRUNG QUỐC!!!)
Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, sau khi hơn một nửa lănh thổ bị rơi vào tay Cộng sản, vào khoảng cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, một số dư luận về phía ngoại quốc có đề cập đến việc đă đến lúc miền Nam nên “nói chuyện" với Cộng sản Bắc Việt và tên tuổi của Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng có được nhiều người nhắc nhở đến.
Trong một cuốn hồi kư được xuất bản vào năm 2003 ông Nguyễn Bá Cẩn, vị thủ tướng cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa có cho biết:
"Theo lời Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên thuật lại với Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh (đăng trong Tạp chí Human Rigbts viết bằng Pháp) th́ Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm nói rằng "không có một chính phủ ở một quốc gia nào c̣n có thể đứng vững sau một sự sụp đổ kinh thiên động địa như vậy. Một khi đất nước đă mất 14 tỉnh rồi mà không có một nhân vật nào từ chính phủ cho tới Tổng Tham Mưu bị trừng phạt th́ là một việc vô lư. Và Thủ Tướng Khiêm nói ông ta xin tự nguyện làm “vật tế thần ."
“Từ Tổng Thống Thiệu cho đến Thủ Tướng Khiêm và Phó Thủ Tướng Viên đều đồng ư là phải có một biện pháp ǵ mạnh hơn quyết định sự cải tổ nội các. Sau đó, theo lời phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên th́ Tổng Thống Thiệu đọc lại tờ tŕnh của thủ tướng Trần Thiện Khiêm, trong đó có đoạn đề cập đến giải pháp nếu cần có một tân nội các th́ những nhân vật sau đây được Thủ Tướng Khiêm đề nghị với Tổng Thống Thiệu:
1.Bác Sĩ Trần Văn Đỗ
2. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy
3. Chủ tịch Thựơng nghị Viện Trần Văn Lắm
4. Chủ tịch Hạ nghị Viện Nguyễn Bá Cẩn "
Như vậy th́ theo nhận xét của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Bác sĩ Trần Văn Đỗ được xem là một trong những nhân vật có đủ khả năng để thay thế ông để đảm nhận chức vụ thủ tướng và trong số 4 người được ông đề nghị, tên của Bác sĩ Trần Văn Đỗ được đứng vào hàng đầu, tuy nhiên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă chọn người đứng hàng thứ tư trong danh sách này là ông Nguyễn Bá Cẫn làm thủ tướng.
Những ngày cuối cùng của VNCH , ngay hôm nay Chính quyền VNCH đă đưa ra những thành phần thứ 3 có cảm t́nh với Cộng Sản Bắc Việt để chỉ được mong nói chuyện và thành lập một chính phủ Liên Hợp .
Nhưng t́nh thế hôm nay 24-4-75 VNCH không c̣n là một chính phủ mạnh và có tầm vóc trên trường chính trị khi các Toà Đại Sứ các nước ở Sài G̣n đă rút đi , khi mà không c̣n hậu thuẩn của Quốc Hội Mỹ.
Cộng Sản Bắc Việt bây giờ như con ḱnh ngư , ra lệnh và yêu cầu cp VNCH phục tùng chứ không c̣n muốn nói chuyện.
Cuối cùng cái mong ước của TT Dương Văn Minh sau khi làm Tổng Thống cũng không được Cộng Sản Bắc Việt nói chuyện.
Ngày 24-4-75 của 35 năm xưa chỉ c̣n 1 tuần nữa là cả Miền Nam VNCH có một chính phủ mới và người dân từ thành thị đến thôn quê bắt đầu nghe và thấy cuộc sống mới của phong cách cai trị của chế độ Cọng Sản.
AK sẽ đưa lên diễn tiến những ngày cuối cùng của VNCH , ngày mai 25-4-1975. Và từ đó chúng ta thấy rắng :
HAI CHÂN M̀NH ĐỨNG C̉N CHƯA VỮNG.
HÁ PHẢI NGỒI CHIẾC GHẾ HỌ ĐƯA.
hihii
|
|
anh3ku
member
REF: 535434
04/24/2010
|
HAI CHÂN M̀NH ĐỨNG C̉N CHƯA VỮNG.
HÁ PHẢI NGỒI CHIẾC GHẾ HỌ ĐƯA.
.............................
trả tiền bản quyền chưa em?
@:dẹp xừ ba cái chuyện quá khứ sang một bên đi. muốn khắc thêm mấy mũi tên vào con tim người việt nữa hả em?
|
|
aka47
member
REF: 535438
04/25/2010
|
(Hôm nay ngày 25-4-2010....nhớ lại ngày này 35 năm trước)
35 năm trước những biến chuyển thay đổi cực kỳ nhanh chóng của VN war trong tuần lễ cuối cùng... ..................
NGÀY THƯ SÁU
25 THÁNG 1975
Hôm nay Ông Thiệu rời VN , Ổng ra đi có nhiều t́nh tiết hấp dẫn mà từ trước đến giờ hầu như chưa ai biết. Bài này nói về Ông Thiệu ra đi như thế nào?
..................................
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4 năm 1975, tuy nhiên ông vẫn c̣n trú ngụ trong Dinh Độc Lập cho đến ngày 25 tháng 4. Theo bản cáo trạng của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước và Kiến Tạo Hoà B́nh phổ biến vào ngày 8 tháng 9 năm 1974 tại Huế th́ " Tổng Thống Nguyễn vẫn Thiệu có mua một căn nhà ờ trên đường Công Lư trị giá khoảng 98 trệu đồng và một ngôi nhà ba căn trong Cư xá sĩ quan cao cấp trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu mà ông đă dùng 30 trệu đồng của ngân sách quốc gia để sửa chữa và tân trang từ khi c̣n là Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia năm 1965", tuy nhiên ông Thiệu không muốn dọn ra khỏi Dinh Độc Lập v́ "lư do an ninh."
Theo ông Nguyễn Tiến Hưng, tác giả cuốn " The Palace Fale," th́ chính tân Tổng thống Trần Văn Hương đă yêu cầu Đại sứ Graham Martin thuyết phục ông Thiệu nên rời khỏi Việt Nam và sắp xếp phương tiện để đưa ông ta ra đi v́ chừng nào ông Thiệu c̣n ở lại Việt Nam th́ ông ta cứ t́m cách can thiệp vào công việc của tân chính phủ. Đại sứ Martin đồng ư. Ông Nguyên Tiến Hưng nói rằng TT Trần Văn Hương đă gọi ông Thiệu và đề nghị ông Thiệu nên ra đi v́ nếu ông Thiệu c̣n ở lại th́ phe Cộng sản sẽ có cớ để tố cáo rằng chính quyền của TT Hương là một "chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mà không có Thiệu." Đề cho việc ra đi của ông Thiệu có vẻ hợp pháp, TT Trần Văn Hương đă kư một sắc lệnh cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu làm đại diện đặc biệt cho VNCH đến Đài Loan để phân ưu về việc Tổng Thống Tưởng Giới Thạch từ trần ngày 5 tháng 4 năm 75. Thật ra th́ đây là một chuyện khôi hài v́ tang lễ của cố TT Tưởng Giới Thạch đă diễn ra tại Taipei cách đó ba tuần lễ và người đă đại diện cho VNCH chính là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. (Quưnh quá rùi nên lệnh lạc y như bắt cóc bỏ dĩa)
Theo Frank Snepp, người đă lái xe đưa ông Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất, th́ Cụ Hương cũng không mấy vui vẻ cho lắm khi ông Thiệu tuy đă từ chức nhưng vẫn c̣n muốn đóng vai "thái thựơng hoàng” và vẫn c̣n ngồi trong Dinh Độc Lập gọi điện thoại can thiệp hết chuyện này đến chuyện kia, tuy nhiên nếu cụ ép buộc ông Thiệu phải ra đi th́ sẽ làm phật ḷng những kê vẫn c̣n ủng hộ ông Thiệu, do đó Cụ yêu cầu đại sứ Martin t́m một giải pháp cho vấn đề này. Đại sứ Martin chẳng mấy tha thiết về việc này v́ cho đến giờ phút đó, ông vẫn c̣n muốn cho mọi người mang cái cảm tưởng là toà đại sứ Hoa KỳT không hề dính dáng ǵ đến việc ông Thiệu từ chức. Tuy nhiên, Tướng Dương Văn Minh th́ lại nghĩ rằng việc ông Thiệu c̣n tiếp tục ở lại Sài g̣n sẽ là một chướng ngại vật cho việc ông ta vận động lên thay thế Cụ Hương để điều đ́nh với Cộng sản, do đó ông Minh đă yêu cầu bạn của ông và cũng là nhân vật số hai của CIA ở Sài g̣n là cựu Thiếu tớng Charles Timmes phải t́m mọi cách đề đẩy ông Thiệu ra đi. Khi có thêm áp lực của CIA, Đại sứ Martin phải bỏ thái độ dè dặt và đành phải sắp xếp đa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam.
Theo ông Trần Văn Đôn trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng th́ vào buổi sáng ngày 25 tháng 4, ông Thiệu mời ông Đôn vào Dinh Độc Lập để " nhờ tôi lấy cho bạn ông ấy một chiếu khán đi ngoại quốc." ông Trần Văn Đôn kể lại rằng trước khi từ giă, ông nh́n thẳng vào ông Thiệu và nói với ông ta rằng: "c̣n phần ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không muốn xảy ra chuyện như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông, nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Nếu tôi lên làm thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đ̣i bắt ông và tôi phải làm theo ". Frank Snepp nói thêm trong phần phụ chú rằng ông Đôn là người đóng vai tṛ quyết định trong việc ông Thiệu sớm ra đi khi ông Đôn nói thêm với ông Thiệu rằng "Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Không Quân mốn ông Thiệu ờ lại - để họ có thể giết ông". Như vậy th́ việc cựu tổng thống Thiệu ra đi là do ư của tân TT Trần Văn Hương và tướng Dương Văn Minh, ông Trần Văn Đôn hù doạ thêm và Đại sứ Martin sắp xếp để ông Thiệu ra đi càng sớm càng tốt.
Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp kể lại rằng vào hồi 5 giờ 30 chiều ngày 25 tháng 4 năm 75, trùm CIA Thomas Polgar gọi Tướng Charles Timmes và Frank Snepp vào văn pḥng của ông ta và ra lệnh cho họ phải giúp cho ông ta đưa ông Thiệu và ông Khiêm đi Đài Loan vào tối hôm đó.
Khoảng 8 giờ rưỡi tối, Tướng Timmes, Frank Snepp cùng 2 nhân viên CIA khác lái ba chiếc xe đến tư gia của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu và khoảng 9 giờ tối th́ trùm Polgar cũng đến nơi. It lâu sau th́ một chiếc xe Mercedes chạy đến đậu ngay trước nhà ông Khiêm và ông Thiệu vội vă bước vào nhà. Frank Snepp nói ràng ông Thiệu có mái tóc bạc chải bóng loáng, quần áo ủi thẳng nếp và trong lúc trời c̣n tranh tối tranh sáng, ông ta có vẻ giống như là “một người mẫu trong tạp chí Gentleman’s Quartery” hơn là một vị cựu tổng thống." Đoàn tuỳ tùng của ông Thiệu người nào người nấy đều to con vạm vỡ tay xách những chiếc va-li quá khổ đến những chiếc xe của toà đại sứ Mỹ và họ đ̣i phải để cho họ đích thân đặt những chiếc va li đó vào thùng sau xe. Frank Snepp nói ông ta không biết trong những va-li đó đựng ǵ, tuy nhiên có vẻ rất nặng v́ khi những hành lư đó được đặt xuống xe th́ nghe như có tiếng kim loại chạm vào kim loại.
Trong một bài nhan đề Từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà Đến Dinb Độc Lập, Những Ngày Cuối, một cựu thiếu úy Công Binh đă từng chỉ huy Đại đội 541 Công Binh Kiến Tạo vào sửa chữa Dinh Độc Lập sau ngày bị Nguyễn Thành Trung dội bom vào tháng 4 năm 1975 có cho biết rằng:”Ngày 25 tháng 4 lăm 1975, vị trung úy trong Dinh đến bắt tay thăm hỏi. Ánh mắt có vẻ không vui. Ngỏ ư mượn 6 anh em binh sĩ. Khoảng 25 phút, anh công binh trong toán trở lại đưa cho tôi 1O,OOO đồng và nói ông Trung uư nhắn là đưa cho tôi 4,000 c̣n mỗi anh em binh sĩ 1,OOO đồng. Nghe xong tôi đưa bết cho anh em binh sĩ để họ chia nhau. Tôi thắc mắc hỏi xem họ đă làm công việc ǵ th́ họ trả lời: lên trên lầu vào pḥng khiêng một cái tủ sắt nhỏ xuống dưới thềm Dinh th́ thấy có xe hiệu Scout, loại cảnh sát dă chiến sử dụng, che bạt kín bịt bùng đậu sẳn. Đẩy tủ sắt vào sàn xe bên trong có 4 người mặc thường phục áp tăi đi với viên trung úy. Theo tôi suy nghĩ, đây là tài sản riêng của Tổng Thống Thiệu mang đi vào phút cuối. Tôi không biết trong tủ sắt nhỏ đó có những ǵ”.
Như vậy, ông cựu thiếu úy Công Binh này cho biết là lính của ông đă di chuyển tủ sắt nhỏ vào ngày 25-4 tức là ngày ông Thiệu ra đi th́ việc này cũng có thể bổ túc cho nhận xét của Frank Snepp nói rằng "hành lư rất nặng".
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông Nguyễn Tiến Hưng ngày 6 tháng 3 năm 1986, ông Thomas Polgar, cựu giám đốc CIA tại Sài G̣n đă phủ nhận điều này. Ông ta nói rằng ông Thiệu ra đi không có mang theo nhiều hành lư v́ ông Polgar muốn rằng việc ra đi này phải thật lẹ làng và êm thấm chừng nào tốt chừng đó. Frank Snepp cũng cho biết thêm rằng ông Thiệu đă cho gởi đi nhiều thùng tài sản, đồ đạc sang Đài Loan và Canada từ ngày 2 và 3 tháng 4, tức là mấy tuần lễ trước khi ông từ chức.
Theo Frank Snepp th́ sau khi đưa hành lư vào thùng xe, Polgar, Tướng Timmes cùng nhiều nhân viên người Việt ra khỏi nhà và bước lên xe. ông Thiệu lên ngồi đằng sau xe của Frank Snepp, ông ta ngồi giữa Tướng Timmes và một nhân viên người Việt, (có lẽ là Đại Tá Vơ Văn Cầm, Chánh Văn pḥng của ông Thiệu). Tướng Timmes đă từng quen biết với ông Thiệu khi ông ta làm tư lệnh Sư đoàn 1 tại Vùng I hồi năm 1961 và khi ông Thiệu làm tổng thống, Tướng Timmes vẫn thường thuyết tŕnh cho ông Thiệu về các tiến bộ trong lănh vực b́nh định. Trên xe, Tướng Timmes nói với ông Thiệu: "Xin Tổng thống cúi đầu xuống" và khi xe đi vào cổng phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta lại vội vă nhắc ông Thiệu cúi đầu xuống v́ lính gác có thể nh́n mặt người trong xe, nhất là lúc đó đă sau giờ giới nghiêm. May thay, khi thấy xe mang bảng số ngoại giao đoàn, lính gác vẫy tay cho đoàn xe chạy thẳng.
Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn pḥng của hảng hàng không Air America, người lái xe trước tắt đèn và Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội vă tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bổng Frank Snepp chợt nh́n thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước, tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích ǵ. Pọlgar mở cửa xe và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lởi cám ơn rồi bước vội đến phi cơ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại Sứ Graham Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc phi cơ vận tải C-118 bốn động cơ của Không Lực Hoa Kỳ, ông ta cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn lên phi cơ rồi sau đó cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất bay đi Đài Bắc. Frank Snepp nói rằng v́ có sự sơ sót của Văn pḥng CIA Sài G̣n, Polgar quên không mang theo hồ sơ tạm dung (parole documents) lên phi trường cho nên cựu tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu rời khỏi Việt Nam mà không có giấy tờ ǵ cho phép ông được nhập cảnh vào Hoa Kỳ và cũng không hề có chiếu khán xuất cảnh của chính phủ Việt Nam .
Vào năm 1975 đến hơn 30 năm sau th́ lại được một nguồn tin xuất phát từ London nói rằng ông Thiệu đă được người Mỹ đưa bằng phi cơ ra Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi hải phận Việt Nam rồi từ đó ông được đưa sang ty nạn tại nước Anh. Nguồn tin này hoàn toàn không đúng sự thật v́ khi ông Thiệu rời khỏi Việt Nam vào ngày 25 tháng 4 th́ các tàu chiến của Hoa Kỳ chưa nhận được lệnh cho phép đón tiếp ngời ty nạn Việt Nam và hơn nữa, ông Thiệu được di tản bằng phi cơ C-118 tức là một loại phi cơ vận tăi 4 động cơ, loại phi cơ này không thể nào đáp xuống hàng không mẫu hạm được. Ông Thiệu được đưa sang Đài Loan rồi sau đó ông và gia đ́nh được sang ty nạn tại Anh Quốc, măi cho đến thập niên 1980 mới di chuyển sang Hoa Kỳ.
Cũng trong ngày 25 tháng 4 khi cựu Tổng Thống Thiệu ra đi, theo Pierre Darcourt th́ TT Trần Văn Hương đă tiếp kiến Đại sứ Pháp Mérillon trong 80 phút và sau khi ông Mérillon ra về th́ lại đến lượt Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martinvào Dinh Độc Lập gặp TT Trần Văn Hương. Darcourt nói rằng cả hai ông đại sứ đều cố thuyết phục TT Trần Văn Hương nên t́m ngay một công thức để thương thuyết với phe Cộng sản. Tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương vẫn giữ vững lập trường của ông, đó là ông không thể giao quyền cho ai ngoài khuôn khổ hiến pháp.
Trong khi đó, cũng trong ngày 25 tháng 4, Thường Vụ Trung Ương Cục đă gửi bức điện văn sổ 481/TV cho "Anh Sáu Dân (Vơ Văn Kiệt) anh Năm Xuân”? và P.10 tức là Đảng ủy Sài g̣n Gia Định nói rằng "Theo đài BBC th́ Hương đă gặp Minh nhường quyền tổng thống cho Minh. Trước đây ta dự kiên Thiệu đổ th́ phải làm gái. Nay Thiệu đổ trong một t́nh h́nh ta đang thắng lớn, địch đang thất bại và bối rối, nhưng lại đưa con bài mới này ra và sẽ đặt vần đề thương lượng để hạn chế thắng lôi của ta và làm lạc hướng đấu tranh của quần chúng. Cần lănh đạo tư tưởng cho ṇng cốt ta tuyên truyền trong những người tích cực ở lực lượng thứ ba đừng mắc mưu bọn đế quốc và phản động đang có âm mưu dùng con bài mới để ngăn ta giành thắng lợi hoàn toàn. Ta vẫn khẳng định phải giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để".
Như vậy th́ theo tinh thần điện văn này, dù cụ Trần Văn Hương có trao quyền cho "con bài mới” là Dương Văn Minh đi nữa th́ Cộng sản vẫn quyết tâm không thương lượng và "khẳng định phải dành thắng lợi hoàn ṭan và triệt để” tức là đi đến chiến thắng toàn diện, đó là chiếm Sài G̣n. -
(Đọc đến câu cuối cùng AK nghe nhiều người nói rằng: về CHÍNH TRỊ phải để cho người Bắc gánh vác th́ mới ổn định được đất nước)...
.............................
*Loạt bài sưu tầm của nhiều nguồn từ Mỹ (Herny Kissinger)(Frank Snepp) và của VNCH (Nguyễn Tiến Hưng , Trần Văn Đôn , Nguyễn Bá Cẩn...) và CS Bắc Việt (Văn Tiến Dũng , Vơ Nguyên Giáp). Và nhiều tài liệu nhân chứng khác nữa ."
|
|
aka47
member
REF: 535495
04/25/2010
|
Xin vui ḷng đừng góp ư...
Dành cho ai muốn t́m hiểu thôi.
Tránh mọi hiểu lầm.
Cảm ơn.
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|