toixinsangsay
member
ID 77459
03/14/2014
|
THA LA XÓM ĐẠO
(Sưu Tầm)
Trần Việt Trình – Tha La xóm đạo
Trần Việt Trình (Danlambao) - Trong thơ văn và âm nhạc của Việt Nam có một địa danh mà tên nghe rất dễ thương và lại có nét tôn giáo, đó là 4 chữ “Tha La xóm đạo”. Rất nhiều người đã nghe qua địa danh này nhưng chưa một lần đặt chân đến, không biết nó ở đâu cũng như không biết tại sao địa danh này lại có cái tên lạ tai như vậy.
Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành,
Tôi về thăm một lần
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha La bảo:
Đây rừng xanh rừng xanh.
Bụi đùn quanh ngỏ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng
Về lửa loạn xây thành.
Trên đây là mấy câu thơ trong bài “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh. Vũ Anh Khanh xúc cảm sáng tác bài thơ vào năm 1950, sau một dịp ông đến thăm Tha La. Đây là một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời, nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Bài thơ kể về xóm đạo Tha La trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ giản dị, gần gũi, nhịp điệu nhẹ nhàng như một lời tâm tình, đã lay động tâm hồn của biết bao người. Những vần thơ ấy đã đi vào lòng người nên Tha La được nhiều người biết đến.
Cảm hứng từ bài thơ trên, nhạc sĩ Dzũng Chinh đã phổ thành nhạc vào năm 1964. Một năm sau, nhạc sĩ Sơn Thảo cũng phổ thành bài hát mang tên “Hận Tha La” và cũng trong năm này nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành ca khúc mang tên “Vĩnh Biệt Tha La”. Ngoài ra, soạn giả cải lương Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý tưởng của Vũ Anh Khanh để viết ra ca khúc tân cổ giao duyên có cùng tên.
Cho tới nay, thân thế của Vũ Anh Khanh vẫn chưa được sáng tỏ. Người ta chỉ biết ông tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận. Trước năm 1945, ông vào Sài Gòn làm báo và viết văn. Sau, ông hoạt động cùng với Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang và Thẩm Thệ Hà trong nhóm “Văn học yêu nước” ở Sài Gòn nên ông bị chính quyền miền Nam theo dõi. Năm 1950 ông trốn ra chiến khu. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 Hiệp Định Genève được ký kết, chia cắt nước Việt Nam làm hai. Khoảng một triệu người dân miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Một số ít các cán bộ và binh sĩ của cộng sản ở miền Nam lội ngược ra Bắc, trong số nầy có Vũ Anh Khanh.
Một thời gian ngắn sau ông được cử đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu ở New Delhi, Ấn Độ. Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Phải chăng chim sổ lồng đã “sáng mắt sáng lòng” nhìn ra được điều gì đó nên sau khi dự Hội Nghị về, ông được cử đi công tác ở Vĩnh Yên, một tỉnh nằm ở phía Bắc của Hà Nội nhưng ông đã sửa lệnh công tác thành Vĩnh Linh, một địa danh gần Sông Bến Hải vì trong đầu ông đã có ý định vượt tuyến về miền Nam tìm lại Tự Do. Vũ Anh Khanh đã đến được Vĩnh Linh và thực hiện cuộc vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải.
Khi ông sắp đến được bờ Nam thì bị phát giác. Công an gác ở sông Bến Hải dùng nõ và tên tẩm thuốc độc bắn ông chết. Sở dĩ họ phải dùng nõ và tên độc để Ủy ban quốc tế không thể quy trách họ vi phạm Hiệp định ngưng bắn được vì Hiệp Định Genève cấm dùng súng ở Khu Phi Quân Sự.
Vũ Anh Khanh mất tại Bến Hải năm 1956, lúc đó ông chỉ mới được 30 tuổi. Xác của người bạc mệnh được vớt lên và bị vùi dập đâu đó trong khu phi quân sự mà không để lại mồ mả hay vết tích gì.
Vũ Anh Khanh có lẽ là một nhà văn – nhà thơ có cuộc đời ngắn ngủi và số phận hẩm hiu nhất trong các nghệ sĩ cùng thời. Ông không được cả hai chế độ miền Nam và miền Bắc thừa nhận tài năng vì các hoạt động chính trị ngược giòng. Chính quyền miền Nam coi ông là văn sĩ – thi sĩ cộng sản đã đành, chính quyền miền Bắc cũng quay mặt với ông, cố tình gạt bỏ tên ông ra khỏi văn học sử.
Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Những tác phẩm của ông phần lớn được in trong năm 1949 tại Sài Gòn. Truyện dài của ông gồm có Cây Ná Trắc, Nửa Bồ Xương Khô và Bạc Xíu Lìn. Truyện ngắn có Sông Máu, Đầm Ô Rô, Bên Kia Sông và Ngũ Tử Tư. Tuy nhiên bài thơ “Tha La xóm đạo” mới làm cho ông được nhiều người biết đến tên tuổi mãi về sau.
Bài thơ đầy cảm hứng tuyệt vời, với ý thơ ngọt ngào, lời thơ bình dị, nồng nàn, nhịp thơ nhẹ nhàng, gần gũi, hồn thơ man mác dễ tác động tâm hồn nhạy cảm của người nghe. Do vậy, nhiều người dầu chưa từng đặt chân đến Tha La, cũng có thể dễ dàng rung động con tim qua màu sắc thiên nhiên hòa quyện trữ tình với:
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Đường đi đến Tha La không khó. Cứ theo Quốc Lộ 1 từ Sài Gòn theo hướng tây bắc chạy đến Hóc Môn rồi qua Củ Chi và đến Trảng Bàng. Từ Trảng Bàng mon men về hướng tây thêm chừng 6 cây số thì sẽ vào đến đất Tha La.
Tha La không có cảnh đẹp nên thơ, Tha La cũng không có lâu đài cổ kính, nhưng có trái ngọt, cây lành, có những con người hiền hòa sống với lũy tre xanh, và đẹp vì tình người. Vì mật độ dân cư không nhiều, chỉ vào khoảng 3000 người trước năm 1975, nên người ta không tìm thấy Tha La trên bản đồ địa lý hay bản đồ hành chánh. Xóm đạo Tha La được tổ chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánh đường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùng tu lại năm 1967. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh.
Khách quan mà nói, Vũ Anh Khanh đã thăng hoa vùng quê nghèo “Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh, Gió đùn quanh mây trắng” thành một xóm đạo nên thơ, nhưng trăn trở trước vận nước lầm than, ly loạn, và cũng không kém phần kiên cường bất khuất giữ vững niềm tin trước những gian nan thử thách.
Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Rồi
Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt.
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi đau đất nước lầm than.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, Tha La chưa hề có dấu vết của chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng Tha La có một niềm tự hào là đã có những “người nước Việt ra đi vì nước Việt”. Đó là hình ảnh đẹp lưu truyền của các chàng trai Tha La anh tuấn năm xưa đã xếp việc bút nghiên hăng hái lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc.
Thế rồi, bẳng đi nhiều năm sau một thời gian dài ngủ yên, Tha La lại trở mình thức giấc. Đầu Xuân 1974, tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở biển Đông giữa các quốc gia liên quan trong khu vực lúc bấy giờ nỗ ra, cái tên Tha La sống trở lại, vì một người con của Tha La đã ra đi. Tha La đã hiến dâng một người con ưu tú, tài hoa, một vị anh hùng, một chiến sĩ can trường, bất khuất đã hiên ngang xả thân quyết tâm chiến đấu với giặc xâm lăng để bảo vệ non sông trên hải đảo Hoàng-Sa trong một trận thư hùng. Ông đã oanh liệt chiến đấu cho đến giây phút cuối cùng, đã anh dũng hi sinh đền nợ nước, để lại tấm gương mãi mãi nghìn thu bằng những nét son tô đậm được vinh danh ghi tạc ở bia vàng: Ngụy-văn-Thà, cố Trung-Tá Hải-Quân, Hạm Trưởng Nhựt-Tảo HQ10. Ông sinh trưởng tại Tha La và là học sinh trường Cao-Đẳng Trảng-Bàng, Tây-Ninh.
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat