Vietnam Single Tim Ban Bon Phuong  


HOME  -  FORUM  -  REGISTER  -  MY ACCOUNT  -  NEW  PHOTOS  -  BROWSE  -  SEARCH  -  POEM  -  ECARD  -  FAQ  -  NCTT  -  CONTACT

Sponsored links


Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ư mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ư

 
NCTT Những chủ đề mới nhất

NCTT Những góp ư mới nhất
NCTT Website


Who is Online
 

 

Forum > Việt ngữ, lịch sử, văn hóa >> Lịch Sử không thể quên

 Bấm vào đây để góp ư kiến

1

 hatlinh
 member

 ID 82717
 06/12/2016



Lịch Sử không thể quên
profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email -goi thu   Thong bao bai viet spam den webmaster  edit -sua doi, thay doi edit -sua doi, thay doi  post reply - goy y kien








Lịch sử không thể quên





Tổng thống Obama tới viếng thăm chánh thức Việt nam, không đặt những vấn đề "dân chủ hóa chế độ ", phải tôn trọng " nhơn quyền " như Hà nội đă cam kết, mà khi ra về c̣n để lại hai món quà quí giá, ngơài ước mơ của Hà nội. Nói món quà v́ ông Obama không đói hỏi phải "có lại" ở phía Việt nam. Món thứ nhứt là tháo gở sự cấm vận bán vơ khí cho Việt nam.

Dĩ nhiên, muốn có vơ khí để bảo vệ đất nước, Việt nam phải mua. Lệnh cấm vận cực kỳ quan trọng v́ khi bị cấm, Việt nam có tiền cũng không mua được vơ khí. Không phải chỉ không mua của Mỹ, mà các loại vơ khí có liên hệ với Mỹ, cả nước sản xuất có liên hệ với Mỹ, cũng đều bị luật cấm chi phối. Hơn ai hết, Hà nội đă có kinh nghiệm về lệnh cấm vận của Mỹ rồi. Trước đây, khi khai thác dầu hỏa ở biển sâu, Liên-xô không đủ khả năng, Hà nội nghĩ có thể mua dụng cụ hay hợp tác với các nước khác ngoài Mỹ nhưng rốt cuộc, đều không thoát ra khỏi ṿng cấm vận. Như mua mủi khoan Mitshubisi của Nhựt bổn cũng không được v́ hảng có vốn đầu tư và kỷ thuật của Mỹ và đồng thời là đồng minh của Mỹ.

Món quà thừ nh́ là giúp Việt nam xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo nhằm đầu tư nhơn lực vào việc phát triển kinh tế xă hôi, cụ thể là thành lập Đại học chuyên nghiệp Fulbright ở Sài g̣n, với kinh phí dự trù lên tới hằng trăm triệu đô-la mỹ. Món quà này, Việt nam chỉ hưởng chớ không phải mua. Có lẽ v́ vậy mà nảy sanh ra sự phản đối quyết liệt một người Mỹ được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị thay v́ một người V́ệt nam.

Lập luận cho rằng ông Bob Kerry vốn là " tội phạm chiến tranh". Đứng đầu một cơ quan giáo dục phải là người trong sạch, đạo đức.

Sự phản đối không phát xuất mạnh mẻ từ phia dân chúng, càng không phải từ phía gia đ́nh nạn nhơn ở Bến tre, mà từ đảng cộng sản, như báo chí của đảng cộng sản, của bà cựu phát ngôn Phan Thanh Thúy, bà cựu Chủ tịch nước Nguyễn thị B́nh, bà cựu Đại sứ Tôn nữ thị Ninh,...Trái lại, quan điểm bênh vực, dựa theo chánh sách cũng của đảng cộng sản chủ trương "xóa bỏ hận thù, quên quá khứ để hướng về tương lai", đồng ư sự đề cử ông Bob Kerrey lại phát xuất từ nhiều cá nhơn tư nhơn có tư cách.



--





Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
 

 hatlinh
 member

 REF: 709143
 06/12/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai






Chống ông Bob Kerrey


Phát Ngôn Nhân của Bộ Ngoại Giao hà nội khẳng định Bob Kerrey đă phạm tội ác chiến tranh trong cuộc thảm sát ở Thạnh Phong, tỉnh Bến Tre. Việt Nam chưa kiện Bob Kerrey ra ṭa án diệt chủng. Nhưng Việt Nam cũng chưa từng hủy các cáo buộc Bob Kerrey phạm tội ác chiến tranh.

Nhà nước cộng sản ở Việt nam hài ra 5 tội của ông Bob Kerrey để bênh vực lập luận chống đối ông Kerrey được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Fulbright ở Sài g̣n vừa được phép thành lập.

Sau khi đă đọc một số ư kiến về việc ông Bob Kerrey làm Chủ tịch trường Đại học Fulbright, bà cựu Phó chủ tịch nước Nguyễn thị B́nh chia sẻ ư kiến của một số người trong đó có ư kiến của Tôn nữ thị Ninh không ủng hộ việc bổ nhiệm ông Bob.

Theo bà, đây không phải chỉ là vấn đề ngoại giao, hay chính trị, mà chủ yếu về giáo dục văn hóa và tâm lư. Ông Bob được giao việc này là không thích hợp. Nói như vậy không phải là không đánh giá cao sự đóng góp của ông và nhiều người vào quá tŕnh vận động và h́nh thành nhà trường.

Riêng bà Tôn nữ thị Ninh lớn tiếng công kích ông Bob Kerrey hung hăn hơn hết. Để yểm trợ lư do chống ông Bob Kerrey, bà Ninh khoe thành tích thời đi học ở Paris từng tưng bừng tham gia phong trào phản chiến chống «chiến tranh việt nam», thật ra chỉ chống Miền nam và Huê kỳ để yểm trợ Hà nội. Khi làm ngoại giao, bà xây dựng được mối quan hệ với thành phần phản chiến ở Mỹ và Âu châu, tức những thành phần chống lại chánh phủ của họ. Rất tiếc bà lại quên kể thêm năm 1972, bà nghỉ dạy Anh văn Trung học ở Paris

v́ đă gặp được Bác sĩ Đại tá công an Nguyễn Ngọc Hà sẽ đưa bà về Sài g̣n nằm vùng Ban Anh văn của trựng Đại Học Sư Phạm. Sự chọn lựa của bà Ninh cho thấy bà quả thật là người phụ nữ thông minh v́ bà thấy xa. Với cộng sản, chỉ có nghề công an mới giúp làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Tấn Dũng, Trần Đại Quang,.. Xa hơn là Hồ Chí Minh cũng bắt đầu bằng nghề chỉ điểm, rồi xách động-tuyên truyền (agit-prop). Lẽ ra bà Ninh phải làm Chủ tịch Quốc Hội hay Thủ tướng. Phải chăng v́ bà không hợp nhản ổng Tổng Bí thư Trọng mà đă không được « cơ cấu »?

Bà nóí bà sẳn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai, là người ủng hộ mọi chủ trương hợp tác xây dựng và phát triển quan hệ giửa hai nước Huê kỳ và Việt nam. Nhưng khi biết rằng cựu Thượng Nghị sĩ Bob Kerrey được bổ nhiệm làm Chủ tịch Đại học Fulbright, bà lại vô cùng bàng hoàng và không thể hiểu nổi. V́, theo bà, ông Bob Kerrey là người đă trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này, chính ông Kerrey cũng thừa nhận. Sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó. V́, vẫn theo bà Ninh, việc ông hối hận về vai tṛ trong vụ thảm sát Thạnh Phong, bà nói bà không thể biết và chỉ có ḿnh ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lănh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ.

Bà Ninh c̣n hỏi ông c̣n chần chừ ǵ nữa mà không rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn sàng”. Bà cho rằng cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao.Và cả nhiều người Mỹ sẽ đồng t́nh với quyết định đó của ông.

Trả lời những người liên quan trực tiếp đến dự án công khai khẳng định rằng Bob Kerrey là người “hoàn toàn phù hợp” để giữ vị trí lănh đạo đó, bà Ninh hỏi lẽ nào nước Mỹ không c̣n ai có thể vận động vốn cho trường Fulbright Việt Nam ngoài Bob Kerrey?

-


 

 hatlinh
 member

 REF: 709144
 06/12/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai





Ủng hộ ông Bob Kerrey


Sau những lời chống ông Bob Kerrey ở vị trí lănh đạo Đại học Fulbright, không ít người ở Việt nam lên tiếng đả kích tác giả của những lời đó. Họ là nhà báo, nhà văn, nhà thơ, từng chiến đấu trên chiến trường, cả người trẻ, …Những người không giử vai tṛ cốt cán của chế độ. Họ chống không v́ họ không được hưởng bổng lộc mà chống v́ họ không thể chịu nổi những lập luận nặc mùi công an tư tưởng, làm nhớ lại ư hệ “ai thắng ai” của thời c̣n Liên-xô. Họ chống bà Tôn nữ thị Ninh mạnh hơn hết cũng v́ bà này hung hăn nhứt, oang oang bằng lưởi gổ.



TỄU Blog nhắc lại một trong những câu phát biểu "nổi tiếng"của bà Tôn Nữ Thị Ninh tại buổi họp báo ở Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2004 khi Việt nam bị chỉ trích vi phạm thường xuyên nhân quyền, đàn áp người dân : "Trong gia đ́nh chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh th́ để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gơ cửa đ̣i xen vào chuyện riêng của gia đ́nh chúng tôi".



Minh Phương Nguyên b́nh luận “ khi bà Ninh muốn ông Bob Kerrey "không chần chừ ǵ nữa" rời bỏ vị trí này, phải chăng chỉ v́ động cơ hoàn toàn cá nhơn thúc đẩy? Theo Minh Phương Nguyên, bà Ninh không sẵn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai cùng với nhân dân hai nước v́ lợi ích chung", như bà nói. Trái lại, rỏ ràng bà đă xách động tạo dư luận chống lại Bob Kerrey và FUV.

Cũng nên nhớ bà Ninh đă sang California để t́m sự ủng hộ, đầu tư cho trường Trí Việt của bà, và bà đă bị tẩy chay. Hơn nữa, bà Ninh không hội đủ điều kiện pháp lư v́ chưa có «Văn bằng Tiến sĩ xây dựng đảng».

Ông Trân Trương đớp chác bà Ninh rất cân xứng, tuy lời lẻ có quá nặng. Như « bà Ninh là thứ ăn cháo, đá bác …. ». Ông nhắc lại khi phóng viên BBC hỏi : "Bà đă từng tham gia hoạt động đấu tranh cho dân chủ khi c̣n là thanh niên đi du học bên Pháp, vậy bà có biết các tổ chức thanh niên ngày nay đang hoạt động dân chủ ở Việt Nam không?" th́ bà trả lời một cách khinh mạn rằng : "Tôi rất bận rộn nên ít có thời giờ quan tâm đến các việc này nên cũng không rành lắm...".

Thật ra bà Ninh lúc c̣n sinh viên ở Paris chạy theo UNEF, ( Liên Đoàn Sinh viên Pháp, tổ chức khuynh tả, ngoại vi của đảng cộng sản pháp), có « bồ » người ma-rốc, cán bộ UNEF, biểu t́nh chống Chánh phủ Sài g̣n và chống Mỹ cứu nước, chớ có tranh đấu dân chủ ǵ đâu. Thị Ninh làm phản chiến để chạy theo VC. Thị được Gs Trần văn Tấn đem về làm Assistante (Giảng nghiệm viên) ở Ban Anh văn Đại Học Sư phạm Sài g̣n, chớ không phải Phó Ban (Không đủ bằng cấp và tŕnh độ - chỉ có Maîtrise d’anglais, tức Tú Tài +4 – Cài « Luận án » mà Thị nói, chính là Tiểu luận – Mémoire de Maitrise ). Ngày 1/5.75, Thị Ninh mang băng đỏ, tiếp quản Đai Học Sư phạm, làm Trưởng Ban, quyết định nhơn viên ai đi, ai ở, ai làm việc ǵ, …v́ liên tiếp mấy hôm trước 30/04, Thị chạy đi chạy về phi trường Tân Sơn Nhứt mà vẫn không leo lên được máy bay đi Mỹ trốn VC. Về nhà, Thị Ninh khóc hơn bố chết ( Kim Chi, nữ sinh viên Ban Sử Địa, láng giềng của Thị Ninh kể lại). Con người thật của Thị bắt đầu từ đây.

Tưởng cũng nên nói thêm Thị Ninh phản chiến ở Paris như vậy, mà tại sao được về Sài g̣n làm việc? Đó là khuyết điểm cơ bản của Sài g̣n. Riêng Gs Trần văn Tấn « có tiếng theo VC » nhưng nhiều người bạn thân lâu năm với ông th́ quả quyết ông « không phải VC ». Ông chỉ là người có họ hàng với « Bà Tư Phải » và thường thích nước chanh thêm chút đường!

Giáo sư Chu Hảo, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Xuân Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhà báo Nguyên Ngọc, … đều bày tỏ lập trường ủng hộ ông Bob Kerrey ở chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Fulbright, theo chủ trương « xóa bỏ hận thù, cùng hướng về tương lai » của nhà cầm quyền ở Việt nam.

Riêng nhà báo Nguyên Ngọc không ngần ngại nói rỏ lư do ông ủng hộ ông Bob Kerrey. Ông nhận thấy ông Bob Kerrey thật ḷng tự kiểm thảo, lương thiện hơn ai hết. Ông không để cho ai bào chữa cũng quyết không tự bào chữa cho ḿnh, ông biết ông là một tội phạm không cầu mong được tha thứ, nhưng đồng thời, bằng trải nghiệm đau đớn nhất của ḿnh, ông cũng chỉ ra mâu thuẫn chết người trong “chiến thuật của chúng tôi”, tức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam : để tiêu diệt Việt Cộng phải đánh bật họ ra khỏi dân thường (tát nước để bắt cá). Mà điều ấy là vô phương, bởi v́, đặc biệt ở nông thôn, thời ấy, hai thực thể đó, về căn bản, là một. Không thể đánh trúng cái này mà không đánh trúng cái kia! Không thể diệt Việt Cộng mà không giết dân. Bob Kerrey là tội phạm, điều ấy ông đă đau đớn nhận, nhưng ông cũng là nạn nhân. Nhận ra mâu thuẫn ở chiến thuật ấy, nhưng ông không dùng nó để bào chữa cho ḿnh. Điều đó là vĩ đại. FUV có được một người đứng đầu như vậy là tuyệt đẹp. Và lựa chọn của FUV là thật nhân văn.

C̣n riêng đối với chúng tôi th́ sao? Chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng “nấp” trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che chở chúng tôi? …



Những người cộng sản, đặc biệt là Thị Ninh, lên án ông Kerrey lại chưa từng chiến đấu trên chiến trường. Họ đặt vấn đề không thể quên lịch sử nhưng họ ngụy tạo lịch sử, có khi xóa lịch sử cho phù hợp xu thế đồng chí. C̣n lịch sử tội ác của họ có nên quên không?

Nay, sau hơn sáu mươi năm, họ có một lời « nói phải » với hơn nửa triệu nạn nhơn cải cách ruộng đất do họ vâng lời Trung cộng tiến hành trên đất nước của họ chưa? Rồi cũng theo Trung cộng, họ tiếp tục gây tội ác Nhân văn Giai phẩm, cải tạo Công Thương nghiệp, đánh Tư sản mại bản, Kinh tế mới, Học tập cải tạo, …Và với những phụ nữ, trẻ con đă chết để che chở họ, ngày nay, nắm trọn chánh quyền, họ có một lần nhớ tới không? Đó là những tội ác chống nhơn loại. Bởi họ không giết người trong lúc đang giao chiến hay hành quân. Họ vẫn chưa từng nh́n nhận, trái lại, c̣n triển lảm thành tích giết người này. Cả những dụng cụ như cái búa với lời ghi chú « đă đập được bao nhiêu cái đầu » của những người không theo cộng sản.



Chúng ta đừng bao giờ quên …bởi v́ « đó là cộng sản! ».

Hồ chí Minh đă viết (báo Thanh Niên Quảng Châu, 20-12-1926) « Cái danh từ Tổ quốc là do các chánh trị gia đặt ra để đè đấu nhơn dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có Tổ quốc, cũng chẳng có b́ên giới ».

Trong gần đây, để bày tỏ lập trường cộng sản kiên cường, Gs Ts, Hiệu trưởng Đại học Quốc Gia Hà nội, Vũ Minh Giang, tuyên bố « Đào mồ, cuốc mả tổ tiên của tôi th́ được. Chớ đập bỏ tượng Lenin là vô văn hóa ».


Nguyễn thị Cỏ May




 

 hatlinh
 member

 REF: 709155
 06/13/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai






Kerrey, Không Kerrey?



Hà Nội muốn ǵ? Muốn đưa Bob Kerrey vào trại cải tạo chung thân hay 20 năm? Có những mối thù dai dẳng như thế, nửa thế kỷ vẫn không quên.

Bản tin RFA ghi rằng nhà nước Hà Nội muốn Đại học Fulbright Việt Nam xem xét vị trí của ông Bob Kerrey.

RFA hôm 3-6-2016 ghi rằng:

“Tuyên bố trong cuộc họp báo chiều hôm qua 2/6 tại Hà Nội, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng, sự kiện ông Bob Kerrey, người từng chịu trách nhiệm trong một vụ thảm sát thời kỳ chiến tranh, được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng tín thác Đại học Fulbright, cần được xem xét phù hợp với xu thế quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Ông Lê Hải B́nh nhấn mạnh rằng, những đau thương mất mát mà người dân Việt Nam phải trải qua trong chiến tranh là rất to lớn và không ǵ có thể bù đắp được. Được biết việc ông Bob Kerrey giữ chức vụ quan trọng trong Hội đồng Quản trị Đại học Fulbright Việt Nam, đă gây nhiều phản ứng trái chiều trên báo chí Việt Nam, cũng như mạng xă hội trong những ngày vừa qua.

Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ông Bob Kerrey từng là chỉ huy biệt kích thủy bộ. Sau này, ông nhận trách nhiệm đă chỉ huy một trận đánh được mô tả như một cuộc thảm sát tại tỉnh Bến Tre. Trên báo chí Hoa Kỳ, ông Bob Kerrey nói rằng sự việc xảy ra ám ảnh ông suốt đời. Và ông tự nhủ ḿnh sẽ làm mọi việc có thể, để giúp đỡ Việt Nam xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.”(ngưng trích)

Trong khi đó, cái nh́n từ một nhân vật từng trưởng thành ở Miền Nam dưới chế độ VNCH là chỉ nên xét 'có khả năng và có uy tín' hay không.

BBC hôm 3-6-2016 viết:

“Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên nghiên cứu về quan hệ quốc tế tại đại học George Mason, Washington DC cho rằng, trong việc này chỉ có một câu hỏi rơ rệt là "có tha thứ hay không tha thứ".

"Mỗi người sẽ nh́n ở một góc độ, cảm quan khác nhau và kinh nghiệm cá nhân khác nhau, tôi tôn trọng những ư kiến đó."

Đối với Giáo sư Hùng: "Có hai điều, thứ nhất, là nó phù hợp với truyền thống mà Việt Nam vẫn nói là rộng lượng và tha thứ, thứ hai là phù hợp với chính sách của chính phủ là gác quá khứ, hướng tới tương lai."

Ông cũng nhắc tới bài viết của Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết nêu ví dụ về kinh nghiệm của người Nhật đối với Hiroshima và nước Mỹ, mà nhiều người coi việc Hoa Kỳ giữ Nhật Hoàng lại ngai vàng là hành động khôn ngoan và có lợi cho Hoa Kỳ.

Riêng về ông Kerrey, ông Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá rằng ông Bob Kerrey đă chứng tỏ được hai điều kiện ở vai tṛ tại Đại học Fulbright là 'có khả năng và có uy tín'...”(ngưng trích)

Và một nhà văn từng chiến đấu bên phía Bắc quân lại khác...

Trang Văn Việt (http://vanviet.info/) có bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc tựa đề “Về Trường Hợp Bob Kerrey” đă viết, trích:

“...Nhiều người đă nói các chi tiết rồi, tôi chỉ xin nhắc lại vắn tắt: Đầu năm 1969, Bob Kerrey là đại úy, chỉ huy một trung đội SEALs, kiểu đơn vị biệt kích tinh nhuệ nhất hải quân Mỹ. Phân đội của ông được báo có lănh đạo cao cấp của Việt cộng sẽ họp cùng bí thư chi bộ địa phương ở Thạnh Phong, một ấp nhỏ ven biển thuộc tỉnh Bến Tre. Ông cho đơn vị của ḿnh tập kích vào Thạnh Phong. Ông nói rằng ông không tự tay giết người, điều ấy có thể tin, một người chỉ huy không nhất thiết phải tự ḿnh bắn. Nhưng ông thừa nhận ông chịu trách nhiệm toàn bộ: họ đă giết chết 24 người, trong đó có 14 phụ nữ và trẻ em cùng một ông già. Bob nói: “Cuối cùng vẫn là những người phụ nữ đă chết, những đứa trẻ đă chết… vẫn là cái chết.” Và là tội ác. “Tội lỗi đối với tôi là cảm giác đầy hủy diệt…”. Suốt 32 năm nay. Suốt đời…

Sau chiến tranh, Bob Kerrey từng là thượng nghị sĩ, là thống đốc bang, là ứng viên tổng thống Hoa Kỳ, và trên tất cả các cương vị đó, ông đă có đóng góp quan trọng và lâu dài cho quan hệ Việt – Mỹ và trao đổi giáo dục giữa hai nước, ông cũng là một trong những nhân vật hàng đầu thiết kế chương tŕnh kiên tŕ suốt nhiều năm cho sự ra đời của FUV hôm nay. Có thể nói không quá, ông đă làm tất cả cho Việt Nam, cho giáo dục Việt Nam… Nhưng chưa bao giờ ông coi là có thể bù đắp tội lỗi đă gây ra....

...bằng trải nghiệm đau đớn nhất của ḿnh, ông cũng chỉ ra mâu thuẫn chết người trong cái mà ông gọi là “chiến thuật của chúng tôi”, tức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam: để tiêu diệt Việt Cộng phải đánh bật họ ra khỏi dân thường, ra khỏi “phụ nữ và trẻ con” (c̣n được gọi là chiến thuật “tát nước để bắt cá”). Mà điều ấy là vô phương, bởi v́, đặc biệt ở nông thôn, thời ấy, hai thực thể đó về căn bản là một. Không thể đánh trúng cái này mà không đánh trúng cái kia! Không thể diệt Việt Cộng mà không giết dân, đàn bà và trẻ con! Cho nên, cho phép tôi nói điều này: Bob Kerrey là tội phạm, điều ấy ông đă đau đớn nhận, nhưng ông cũng là nạn nhân. Nạn nhân bi thảm của cái “chiến thuật” nghe rất hay ho kia. Bob Kerrey nhận ra mâu thuẫn chết người ở chiến thuật ấy, nhưng không dùng nó để bào chữa cho ḿnh. Điều đó là vĩ đại. FUV có được một người đứng đầu như vậy là tuyệt đẹp. Và tôi cho lựa chọn của FUV là thật nhân văn.

C̣n riêng đối với chúng tôi th́ sao, chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng “nấp” trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che cho chúng tôi?

Hóa ra tự chúng tôi cũng c̣n một câu hỏi…”(ngưng trích)

Kerrey hay không Kerrey? Có ai hỏi, bao giờ CSVN xin lỗi về trận thảm sát Huế Mậu Thân 1968?



Cô Tư Sài G̣n


 

 aka47
 member

 REF: 709165
 06/13/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai



Ông Kerry dưới cách nh́n của nhà nước th́ ông là tội phạm chiến tranh chưa xét xử , chưa đi học tập cải tạo ..

Nếu ông Kerry không làm ǵ hết , cứ ghé VN du lịch tham quan th́ nhà nước sẽ bỏ qua không c̣n chú ư v́ ḥa hợp ḥa giải dân tộc , quên quá khứ xây dựng tương lai.

Nhưng ông được đưa vô làm lớn ở Fullbright, President chứ ít ỏi sao , một đại học danh tiếng thế giới có chi nhánh ở VN để giúp SVHS th́ phải chịu sự quản lư của nhà nước , phải bị xét lư lịch , phải xem ông ta có ăn năn hối cải và phấn đấu trong quá tŕnh làm việc như thế nào.

Nhà nước phải có lư do để cấm ông chứ , lư do đó là phải cứng một chút , phải hạch sách một chút , phải làm như vẻ ta đây công tội phân minh , phải thấy được nhà nước trọng đạo đức chứ không phải v́ tiền.

Ông Kerry làm việc nước khác th́ OK...c̣n về VN làm việc th́ phải chịu quy chế của VN.

Có vậy mới thấy nhà nước áp dụng câu dù anh làm việc thiện việc tốt nhưng anh là tội phạm th́ cũng không thể im lặng để anh làm được.

Rơ ràng vậy rồi , sau đó có làn sóng phản đối nhà nước , ủng hộ ông Kerry...th́ nhà nước tuyên bố...nhà nước này là của dân , v́ dân , nên dân rộng lượng tha thứ , lấy nhân đạo làm gốc nên nhà nước chấm dứt h́nh sự với ông Kerry và vẫn để ông làm việc b́nh thường.

Cả thế giới vỗ tay.

hihii


 

 aka47
 member

 REF: 709166
 06/13/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai



Và bằng chứng cho thấy nhân dân VN yêu Mỹ hơn là nhà nước yêu Mỹ.

Nhà nước yêu tiền thui hà.



hihii


 

 hatlinh
 member

 REF: 710551
 08/08/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai




Sau 41 năm "phỏng giái" Việt Nam đạt được ǵ?



Một bài viết đang lan truyền trên mạng với tốc độ chóng mặt do một cô gái Việt viết về biến cố 1975 và ngày này Việt Nam đạt được ǵ sau hơn 41 năm "giải phóng" hay được người Việt ví von là "phỏng giái".

Vài năm gần đây mạng xă hội đă phát triển cực ḱ mạnh mẽ. Và sức mạnh của mạng xă hội cũng hết sức ghê gớm đến nỗi mỗi thông tin được cộng đồng đưa lên đều khiến nhà cầm quyền phải quan tâm và xử lư ngay. Sự chia sẻ thông tin, sự tương tác giữa trong nước và ngoài nước dường như đă không c̣n 1 rào cản nào. Chính v́ vậy, nhiều tư liệu lịch sử về cái gọi là "biến cố 1975" cũng đă được phơi bày.

Đă rất nhiều người vỡ lẽ về cái gọi là "giải phóng miền nam", "ngụy quân, ngụy quyền", "Mỹ xâm lược miền nam", "độc lập, tự do, hạnh phúc"....sau 41 năm chúng ta có độc lập ư? Tự do ư? Hạnh phúc ư? Không hề tồn tại những điều đó !!! Dấu mốc 30.4.1975 là dấu mốc đau thương trong lịch sử dân tộc Việt Nam khi hàng triệu con người phải bỏ nước ra đi và có đến nửa triệu người phải bỏ mạng giữa biển khơi trên đường chốn chạy. Đó là dấu mốc khởi đầu cho sự đen tối về đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân cả 2 miền Nam - Bắc, kinh tế đóng cửa, tụt hậu, người dân không có quyền con người, lao động như những cỗ máy trong các hợp tác xă, không ai được nói lên điều ḿnh nghĩ, làm điều ḿnh muốn, chỉ biết làm theo chỉ đạo của tập thể, không có dân chủ, không ǵ cả...

Có ai mang sự nghèo đói, lạc hậu để giải phóng sự thịnh vượng, văn minh không? Có ai muốn sống chung với thứ chủ nghĩa khát máu, vô thần, suy tôn lănh tụ phi dân chủ không? Người dân không muốn điều đó, và trong suốt từ 1975 đến nay hàng trăm, hàng ngàn người vẫn luôn t́m cách rời đất nước đi t́m vùng đất tự do.

Ngày hôm nay, đất nước này, dưới sự lănh đạo độc tôn của đảng cộng sản, đă trở thành thứ ǵ ???

Sự nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, đời sống người dân vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều vùng, dân vẫn không đủ gạo ăn, không đủ áo mặc. Nợ công cho mỗi đầu người thật khủng khiếp trong khi "rừng vàng, biển bạc" đă bị tàn phá tan hoang không c̣n ǵ cả. Môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, chất độc hại tràn lan trong tất cả thực phẩm hàng ngày. Dịch vụ y tế, giáo dục tồi tàn, lạc hậu với thế giới cả nửa thế kỉ. Tiếp tay, dung dưỡng cho hàng hoá trung cộng tràn ngập thị trường, ép chết nền sản xuất trong nước. Chúng lập những phố người hoa trên khắp đất nước, tự tung tự tác trên chính lănh thổ chúng ta. Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa rơi vào tay trung cộng mà đảng cộng sản vẫn làm ngơ coi giặc là bạn, là "đồng chí".

Chỉ đôi ḍng suy nghĩ của cá nhân về biến cố 30.4.1975 muốn chia sẻ để những ai chưa hiểu có thể hiểu thêm, những ai đă biết quá rơ th́ đồng cảm và cùng góp sức cho công lư, sự thật v́ một Việt Nam cường thịnh !!!


st.

--








 

 aka47
 member

 REF: 710558
 08/08/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai




Xem xong thấy ngứa lỗ ... mũi.

hihiii



 

 aka47
 member

 REF: 710560
 08/08/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai


AK không phải Công An , không phải Cộng Sản , nhưng xem anh này chửi cả Hồ Chí Minh và đảng nhà nước AK hoàn toàn phản đối v́ cách dùng chữ dùng từ quá vô văn hóa.

Nếu AK ở gần anh này AK sẽ báo Công An bắt liền cho ở tù rục xương , cho Công An mật bỏ bao bố ném ra biển ngay.

Anh này quá phản động.

Nếu anh này ở nước ngoài th́ AK chịu thua v́ anh ta có quyền chửi từ Tổng Thống chửi xuống nhưng hợp pháp...

Xem h́nh th́ chắc chắn anh ta ở VN rồi.

Có một điều AK thích Bắc Kỳ , Bắc Kỳ lúc nào cũng đi tiên phong trong tất cả mọi lĩnh vực dù là lĩnh vực chửi Bác Hồ và đảng , chưa nói đến biểu t́nh đả đảo hoan hô , cái nào cũng hoành tráng , người Bắc họ chẳng sợ cái đếch ǵ cả..

Dân miền Nam chỉ biết nhậu thui.

hihii


 

 aka47
 member

 REF: 710562
 08/08/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai


đùng nói ai , ngay cả ông Nguyễn Xuân Phúc cũng chửi ông Trọng Lú.

Qua đây mới thấy VN ta rất tự do độc lập hạnh phúc.

AK rất chịu ông Phúc này rùi.

kakaka



 

 hatlinhh
 member

 REF: 711778
 09/25/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai




Nhiều người Việt Quốc Nội lên mạng t́m hiểu mới biết ḿnh bị Đảng lừa



Sự thật chỉ phơi bày khi nhiều người Việt lên mạng Internet t́m hiểu về lịch sử. Giấy không thể bọc được lửa, cuối cùng cũng đi tới hồi kết của chế độ Cộng Sản.


Thưa các bạn, là một người trẻ tuổi, chưa một lần được biết đến ngôi trường của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do non trẻ đó, tuy nhiên qua nhiều sách báo, tài liệu và nhân chứng sống, cộng với những suy nghĩ của ḿnh, tôi nhận thấy một điều đó là một chế độ, một nhà nước khác hẳn với những lời tuyên truyền của cộng sản.

Có một câu hỏi làm tôi day dứt gần 10 năm trời khiến tôi phải tự ḿnh đi t́m câu trả lời cho nó đó là: “Tại sao một chế độ thối nát, được quy chụp là Ngụy quân, ngụy quyền lại được người dân thương nhớ, tiếc nuối?”. Và cuối cùng tôi cũng t́m ra câu trả lời cho câu hỏi đó trong bài này đó là “Việt Nam Cộng Ḥa chỉ là nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam”.

V́ sao tôi nói vậy? V́ không có một chế độ xấu xa nào mà hàng triệu công dân của nó ở Hải ngoại lẫn những người vẫn c̣n ở lại trong nước đă từng sống trong chế độ đó và thân nhân họ, thậm chí những người miền Bắc có tư duy đều thương tiếc. Con người ta có một tâm lư chung đó là luôn muốn quên đi cái dĩ văng xấu xa, không tốt đẹp. Vậy khi hàng triệu người dù cho phải ly tán vẫn nhớ về nó th́ đó không thể là điều xấu xa. Đó chính là câu trả lời chính xác nhất.

Thật ra bất cứ một xă hội nào cũng có mặt hạn chế, ngay cả nước Mỹ nhân bản và dân chủ hiện nay cũng c̣n nhiều mặt cần sửa đổi. Việt Nam Cộng Ḥa không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định th́ những hạn chế đó sẽ dần khắc phục theo thời gian và trong cùng một thời điểm lịch sử hay thậm chí ngay cả với xă hội chủ nghĩa Việt Nam hiện tại th́ VNCH xứng đáng dân chủ gấp vạn lần thật sự chứ không nói dối trơ trẻn của bà Doan. Đó là lư do tôi viết bài này để chứng minh cho bạn đọc những sự thật về một nhà nước dân chủ non trẻ nhưng đă phải chịu chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.


Với những người yêu VNCH dù đă từng sống hay chỉ biết đến qua sách vở th́ như một lời khẳng định chắc chắn rằng những ǵ họ đă yêu mến không hề nhầm lẫn.

Với những người bị lừa dối hi sinh cho đảng cộng sản như thế hệ cha ông tôi th́ như một lời chân t́nh để giúp họ thật sự nhận ra bản chất của đảng cộng sản VN và ông Hồ đă lừa dối họ bao lâu này.

Với những người c̣n v́ miếng ăn mà cố gắng lừa bịp dân tộc hăy tỉnh lại đi, sự thật không thể bị bưng bít được măi. Đừng tự lừa dối ḿnh và lừa dối nhân dân nữa, hăy để cho lương tâm con người lên tiếng trong tâm hồn ḿnh.


ct.


 

 hatlinhh
 member

 REF: 711779
 09/25/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai





Phần 1: Những sự thật về Việt Nam Cộng Ḥa

A. Mỹ không hề xâm lược Việt Nam:



Trong bài “Những sự thật cần phải biết - Sự thật về Đại thắng mùa xuân 1975” tôi đă chứng minh thất bại của VNCH không phải do hèn kém như cộng sản bịa đặt. Họ bị đồng minh bỏ rơi và bị ép phải chết yểu trong bàn cờ chính trị Mỹ-Trung cộng-Liên Xô. Mỹ cũng có lỗi của ḿnh trong việc bỏ rơi đồng minh nhưng cũng nên biết rằng nước Mỹ cần phải tự cứu ḿnh trong lĩnh vực kinh tế và cũng do chính sách nhân bản, không muốn lún sâu chiến tranh, đồng thời phần nào đấy là việc họ để cho chính bản thân những người dân Việt Nam nhận ra sự thật về cộng sản.

Tuy nhiên có một điều rất quan trọng mà tôi phải khẳng định đó là Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền để lừa bịp ḷng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi có thể khẳng định điều này? Xin được tŕnh bày như sau.

Thứ nhất, cho đến giờ phút này dù bất cứ ai cũng có thể thấy người Mỹ đến Việt Nam không lấy của người Việt Nam dù chỉ là một mm đất đai, hải đảo. Thậm chí họ c̣n giúp chúng ta xây dựng một Sài G̣n tự do và phồn vinh mà ở thời điểm trước năm 1975 là Ḥn Ngọc Viễn Đông, ngay cả Singapore hay HongKong lúc ấy c̣n phải xếp hàng từ xa. Vậy th́ người Mỹ xâm lược ǵ ở Việt Nam? Đất không lấy, một giọt dầu cũng không? Trung cộng trong khi đó th́ sao? Trung cộng đă lấy Hoàng Sa - Trường Sa "nhờ" công hàm bán nước 1958 của ông Chủ tịch nước Hồ Chí Minh và ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng (xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 2 - Hồ Chí Minh và vai tṛ trong công hàm 1958”). Và c̣n hàng trăm km biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hay Boxit Tây Nguyên. Ai xâm lược đây? Người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản vẫn rêu rao, mà kẻ xâm lược nước ta chính là “Đồng chí 16 chữ vàng, 4 tốt, tri ân sâu nặng” của đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là điều cho thấy đảng cộng sản ngậm máu phun người đối với người Mỹ.

Thứ hai, nếu nói người Mỹ xâm lược Việt Nam th́ có nghĩa là họ phải đổ quân đội vào Việt Nam trước khi đảng cộng sản để lại quân du kích và cán bộ tại VNCH để nằm vùng và khủng bố nhân dân miền Nam. Nhưng thực tế lại trái ngược lại. Xin quay lại “Những sự thật không thể chối - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” bạn đọc sẽ thấy rơ.
Trong bộ môn lịch sử chương tŕnh lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền: “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Nhưng thực chất th́ sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đ́nh Diệm kư Hiệp ước quân sự với Mỹ, th́ miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...

Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đ́nh Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (đă chứng minh trong “Những sự thật không thể chối - phần 3 - Bác, đảng đă bán những ǵ và để làm ǵ?”). Vậy th́ vào thời điểm 20.12.1960, làm ǵ có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm ǵ đă có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái ǵ vào năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho ta thấy bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam và cho thấy việc vu khống cho người Mỹ xâm lược Việt Nam là vô lư.

Thứ ba, hăy nghe người Liên Xô nói về việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam để thấy người anh cả của đảng cộng sản Việt Nam biết rơ người Mỹ không phải vào Việt Nam “xâm lược” như cách tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên“Một bước đi lớn” – bởi nhóm tác giả đă từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động t́nh báo của Liên Xô (đă giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 -Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” có đoạn ở 128:

“Người Mỹ chắc chắn không xâm lược Việt Nam như cách người Pháp thực dân làm trước năm 1945 nhưng Việt Nam phải là một trong những tiền đồn ngăn cản chủ nghĩa tư bản ở Á Châu bao gồm Bắc Triều Tiên, Trung Hoa, Afghanistan...”

Th́ ra người Liên Xô với những con mắt lăo luyện của t́nh báo KGB đâu có cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người Pháp thực dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của họ bị người Mỹ đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm máu phun người của cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ xác v́ quyền lợi của chóp bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong những chiêu bài núp bóng “Giải phóng dân tộc” mà ông Hồ cùng đảng cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.

Thứ tư, thật ra mong muốn người Mỹ vào Việt Nam đổ quân để tạo cớ người Mỹ xâm lược Việt Nam cũng nằm trong âm mưu của Trung cộng chỉ đạo cho ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam thực hiện. Trong cuốn sách “MAO: The Unknown Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House xuất bản, ở trang 470 có đoạn:

“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đă có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo t́nh huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam…”

Thế là đúng ra năm 1963, Trung cộng cũng nhận thấy người Mỹ chỉ có 15000 cố vấn mà thôi. Và chính Mao muốn ông Hồ phải “tạo t́nh huống” để người Mỹ phải đổ quân vào Việt Nam. Đó chính là việc cố t́nh tạo ra “kẻ thù” xâm lược để có cớ đánh VNCH và đổ tội cho người Mỹ xâm lược Việt Nam của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.

Thứ năm, thêm một đồng minh của VNDCCH khẳng định người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản tuyên truyền cho thấy những ǵ chúng ta đă và đang được nghe đảng cộng sản chỉ là lừa bịp. Trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xă hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ư thức hệ. Trong trang 187 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau:

“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây. Nhưng họ phải đổ quân vào v́ họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác, Lê Nin…”

Tác giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người Mỹ không xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà họ chỉ vào Việt Nam trong t́nh thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.

Kết luận: Một kẻ đi xâm lược không thể là kẻ đổ quân vào sau khi đồng minh của họ bị khủng bố. Người Mỹ chỉ đổ quân vào để giúp đồng minh chống lại chủ nghĩa cộng sản bạo tàn và độc tài. Người Mỹ chỉ là một “kẻ thù” được dựng lên với mục đích lừa dối dân tộc trong chiêu bài“Chống Mỹ cứu nước” của đảng cộng sản. Việc tạo ra một kẻ “xâm lược” giả tưởng này không khác ǵ việc người ta cố t́nh dựng lên một h́nh ảnh “thế lực thù địch” để nói về đội ngũ đấu tranh dân chủ hiện nay ở Việt Nam hay bóng ma “thế lực thù địch” đang làm đảng “tự diễn biến”. Một kẻ đi xâm lược không thể không áp bức, bóc lột và lấy đất đai, tài nguyên của chúng ta. Người Mỹ th́ không làm điều đó, vậy họ không thể là kẻ xâm lược.

Người Mỹ đến Việt Nam với mục đích chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên thế giới và giúp VNCH chống lại làn sóng khủng bố của đảng cộng sản gieo rắc tại Miền Nam. Họ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền, họ cũng là nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.



ct.


 

 hatlinhh
 member

 REF: 711780
 09/25/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai



B. Việt Nam Cộng Ḥa không phải là chế độ Ngụy Quân, Ngụy Quyền:


Nếu không có kẻ xâm lược th́ làm ǵ có kẻ làm tay sai “ngụy quân, ngụy quyền”? Như phần A tôi đă chứng minh những tác giả trung lập và ngay cả những người cộng sản Pháp, Liên Xô trong những nghiên cứu nghiêm túc của ḿnh đă công nhận người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam đúng nghĩa. Vậy th́ những người đồng minh của họ là VNCH có phải là tay sai bán nước như cộng sản nhồi nhét vào đầu chúng ta hay không? Không. Hoàn toàn không phải. Đó là một chế độ dân chủ non trẻ nhưng mang trong ḿnh những tư tưởng và ư niệm tốt đẹp cho nhân dân. Tôi xin khẳng định thông qua phần B này.

Nói như bà Dương Thu Hương một nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của CS Bắc Việt vào Sài G̣n vào tháng 4 năm 1975 th́ “Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đă thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt nam phạm phải...” Và chính ông Vơ Văn Kiệt, cựu thủ tướng của CHXHCNVN cũng phải thốt lên cái ngày 30/4 là ngày mà VNCH chính thức mất đi trên danh nghĩa nhưng c̣n măi tồn tại trong ḷng người yêu dân chủ, tự do“Ngày của triệu người buồn.”




1. VNCH có nền kinh tế phát triển hơn hẳn VNDCCH:


Tại miền Nam dưới sự lănh đạo của ông Ngô Đ́nh Diệm, cùng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí, trong thời điểm miền Bắc có cải cách ruộng đất gây tai họa th́ miền Nam cũng có Cải cách điền địa và “Người cày có ruộng” mang lại niềm vui cho nhân dân. Chính v́ có những chính sách hợp lư, chế độ dân chủ nên nửa trong của Việt Nam đă phát triển nhanh chóng. Bằng chứng là Sài G̣n được coi là “Ḥn Ngọc Viễn Đông”.

Ngay sau khi ông Diệm bị giết hại th́ nền Đệ nhị Cộng ḥa cũng đă có những nối tiếp nền Đệ nhất Cộng ḥa để đem lại đời sống no ấm cho nhân dân miền Nam. Dù có khó khăn do chiến tranh liên miên, đảng cộng sản cho quân du kích nằm vùng đặt bom, phá đường, tài sát dân lành th́ nền kinh tế vẫn được duy tŕ một đời sống hơn hẳn so với VNDCCH. Bạn đọc hăy cùng tôi điểm lại những tài liệu để thấy sự thật này.

- Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.

- Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn bùng nổ của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền và nhờ các biện pháp bảo hộ nền công nghiệp trong nước.

- Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rơ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đường và dệt không được bảo vệ nữa nên bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.

- Giai đoạn sau 1972: Các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với nhiều nhà máy mới được xây dựng. C̣n các ngành sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam Cộng Ḥa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng Ḥa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng và hóa chất mới ở tŕnh độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.

- Năm 1973, chính phủ đă tổ chức 2 ṿng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đă tham gia, bất chấp là t́nh h́nh an ninh chưa ổn định. Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10, 1974 hăng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, t́m được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro của Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lư và khai thác.

Thứ nhất, số liệu và nhận xét, “Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đă tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên ḥa, thỏa măn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu c̣n được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm).

Ở nông thôn th́ Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là "Cải cách điền địa") được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái kư. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng.”

Về thu nhập b́nh quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” b́nh quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Trong khi đó 36 năm sau, GDP b́nh quân đầu người của Việt nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD)

Như vậy rơ ràng sau khi nắm đất nước th́ nền kinh tế VNCH đă có những bước phát triển vượt bậc và bước đầu tạo ra dấu ấn cho nhân dân Việt Nam.

Thứ hai, năm 1950 nền kinh tế của Đài Loan gần như không có ǵ đáng kể. Năm 1960 lợi tức đầu người USD170 thua miền Nam lúc đó (190 USD). Năm 2010 Đài Loan có GDP khoảng US$37.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 400 tỉ USD. Năm 1954 kinh tế Hàn quốc thua xa miền Nam lúc đó. Năm 2010 Hàn quốc có GDP khoảng US$20.757/năm. Dự trữ ngoại tệ 311 tỉ USD. Năm 1959 Singapore được tự trị, một quốc gia nghèo, nhỏ bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua miền Nam mọi lĩnh vực. Năm 2010 Singapore có GDP US$43.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 300 tỉ USD. Những con số mà tôi lấy thống kê trích từ “Tạp chí kinh tế Châu Á” năm 2010 bạn đọc có thể kiểm chứng.

Qua những con số biết nói đó chúng ta thấy được ǵ? Đó là những nước có nền kinh tế vượt xa cả trăm lần CHXHCN Việt Nam hiện nay th́ trước năm 1975 họ thua kém VNCH rất nhiều. Vậy mà sau khi “thống nhất” đất nước th́ chúng ta có ǵ? Có chăng chỉ là sự lạc hậu và thua kém. Vậy th́ VNCH đâu phải là một chế độ bù nh́n? Họ bù nh́n tại sao lại làm cho thu nhập b́nh quân của nhân dân cao hơn cả những nước kể trên. Và quan trọng nếu với đà phát triển như con số đă nêu th́ nếu c̣n tồn tại VNCH sẽ là con rồng Châu Á thật sự chứ không phải kiểu rồng đất, rồng tre như CHXHCN Việt Nam ngày nay.

Thứ ba, nh́n chung đa phần dân chúng thời đó vẫn sống ở nông thôn, làm nghề nông là chính. Với chương tŕnh “Người Cày Có Ruộng” đầu thập niên 1970, chính phủ đă chia hằng triệu mẫu ruộng cho nông phu. Đời sống dân chúng cải thiện đáng kể.

Mặc dù miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng, chiếm nhiều cảm t́nh như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ miền Nam thời đó có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.

Một thế mạnh nữa của VNCH là thế hệ trí thức, kỹ sư, cán sự được huấn luyện kỹ lưỡng, làm việc tận tâm. Về mặt này, VNCH hoàn toàn vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore... Có thống kê cho thấy 3 trong số 4 kỹ sư trong toàn vùng khi đó là công dân Nam Việt nam. Năm 1961, kỹ sư miền Nam tiếp tục đón nhận nhà máy thủy điện Đa Nhim từ Nhật. Từ thời này, các chuyên gia Nam Việt Nam cũng đă manh nha dự án khu chế biến lọc dầu Dung Quất ngày nay.

Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán c̣n giúp thực thi các kế hoạch, khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Ḥa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hỏa ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.

Thứ tư, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết:

“Năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Ḥa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền h́nh lớn (ở Sài G̣n, Huế, Quy Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Ḥa ở phía Bắc Sài G̣n, là công tŕnh giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Ḥa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex tŕnh làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra ḷ hơn 540,000 tấn mỗi năm...”

Chính những con số mà chính đảng cộng sản công nhận cũng đă đủ nói lên thực tế không thể chối bỏ đó là VNCH có một nền kinh tế tự do và phát triển ổn định. Ngoài những con số trên chúng ta c̣n thấy được ǵ? Đó là: Nhiều người từng sống ở miền Nam trước đây có lẽ vẫn c̣n nhớ chiếc xe La Dalat, biểu tượng của công nghệ xe hơi non trẻ. Vào thời điểm này, sáng lập viên của hăng xe Hyundai mới chỉ là tiểu thương tại Hàn Quốc. Dù lắp ráp với nhiều phụ tùng ngoại quốc, La Dalat vẫn là chiếc xe hơi đầu tiên mang nhăn "Made in Vietnam", mẫu mă của riêng Việt Nam.

Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đă được đưa về Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.

Thứ năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển kinh tế và cạnh tranh với Mỹ và âm mưu triệt tiêu nội lực của Việt Nam đă phải thừa nhận. Hăy nghe tác giả Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới thiệu cuốn sách “Mao chủ tịch của tôi” trong loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ”. Tác giả thuộc Viện văn học Trung quốc, cho in cuốn sách năm 1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta...” Tác giả Trung cộng này cũng công nhận sự phát triển của miền Nam về kinh tế và khẳng định đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ đang thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng định cho sự thật về nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu của Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.



ct.


 

 hatlinhh
 member

 REF: 711781
 09/25/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai





Trong khi các con số và tài liệu cho thấy VNCH là nước có nền kinh tế phát triển trong đa số các lĩnh vực th́ VNDCCH được cai trị bởi những kẻ độc tài và bạo tàn th́ sao?


Thứ nhất, đó là những con số người chết khủng khiếp trong chiến dịch CCRĐ man rợ do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo mà tôi đă đề cập trong bài Những sự thật không thể chối bỏ - phần 5 - Nỗi đau Cải Cách. Bên cạnh đó là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà nhân dân là những người hứng chịu trực tiếp.

“Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu ḅ. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu ḅ, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung b́nh mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.”

Thu nhập b́nh quân đầu người ở các hộ xă viên hợp tác xă nông nghiệp có sự bất b́nh thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ th́ khoản thu nhập trong hợp tác xă nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xă, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, ḅ, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong cuốn “Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ” - NXB Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: “Năm 1961: Tổng thu nhập b́nh quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xă là 4,5 đồng, c̣n thu nhập ngoài hợp tác xă là 7,0 đồng.”

Ngoài ra, theo tác giả Bernard Fall, một gia đ́nh nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm.(Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).

Thứ hai, kể cả sau khi kết thúc CCRĐ th́ nền kinh tế của VNDCCH không sáng sủa và kém xa so với VNCH. Trong cuốn sách được nhà xuất bản Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 có tên gọi tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa được biết” của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, một đảng viên đảng cộng sản Liên Xô và cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, có đoạn trong trang 197 như sau:

“So với Miền Nam th́ người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đă nhận ra điều này như là một yếu điểm cần phải được sửa chữa của lănh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng thật khó làm điều này v́ kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và theo mô h́nh của Trung Hoa...”

Đoạn trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không bằng VNCH do lạc hậu và theo mô h́nh Trung cộng. Vậy th́ những ǵ tuyên truyền của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị “ḱm kẹp” chỉ là một sự bịa đặt nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.

Thứ ba, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 th́:

“Cho đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ chi dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô bột ḿ, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH chỉ có trên 500 cây số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, 2 đài phát thanh, chưa có máy điện toán...”

Chỉ cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng loại và cũng thời điểm đó đă nêu trên th́ VNCH rơ ràng có nền kinh tế, hạ tầng phát triển hơn hẳn VNDCCH.

Kết luận: Một nền kinh tế VNCH phát triển bền vững và có chiều sâu, chiều rộng cho thấy VNCH đă nỗ lực phát triển để đem lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân. Như vậy đây là kết luận đầu tiên cho thấy chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản về một miền Nam khốn khó, chịu ḱm kẹp là điều không tưởng.


ct.


 

 hatlinhh
 member

 REF: 711782
 09/25/2016

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai




2. Việt Nam Cộng Ḥa – Một đất nước tự do, dân chủ thật sự:


Như ở mục 1 tôi đă chứng minh so với VNDCCH th́ VNCH hơn hẳn về mặt kinh tế, đời sống nhân dân. Vậy c̣n các mặt khác về đời sống, văn hóa, giáo dục và chính trị th́ ra sao? Tôi xin tŕnh bày ở mục 2 này.

Thứ nhất, để nói về tự do dân chủ chúng ta có thể thấy rơ nét nhất là văn hóa và biểu t́nh, tự do lập đoàn thể, hội họp và thậm chí cả chống chính phủ khác hẳn so với VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay là độc tài toàn trị.

Minh chứng rơ nét cho việc này đó là xuất hiện những thành phần cộng sản nằm vùng trong ḷng VNCH như ông Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… Chính quyền VNCH biết rơ họ là cộng sản và biết những hành động của họ làm chống chính quyền. Nhưng họ vẫn được biểu t́nh, kích động dân chúng theo cộng sản. Điều này trái ngược hẳn với quyền tự do bị chà đạp của nhân dân yêu nước khi tham gia biểu t́nh chống Trung cộng xâm lược…

Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm chí các bài hát có nội dung lăng mạn bị đảng cộng sản triệt để cấm đoán v́ lo ngại sẽ hỏng mất chính sách tuyên truyền hận thù của cộng sản th́ tại VNCH vẫn được tự do ca hát. Đó chính là do chính quyền VNCH tôn trọng quyền tự do tư tưởng và thưởng thức âm nhạc của nhân dân. Xin lấy một ví dụ. Bài hát “Những đồi hoa sim” thực chất là bắt nguồn từ một nhà thơ Miền Bắc và trước khi về quê ở ẩn do không chấp nhận sự thối nát của cộng sản cũng là người theo đảng cộng sản, ông là Hữu Loan nhưng vẫn được các nhạc sỹ của VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược lại VNDCCH th́ tuyên truyền “Không nghe, không dùng văn hóa của Ngụy” Mặc dù những bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ chính trị và giàu tính nhân văn.

Nạn nhân của những nghệ sỹ trong chế độ độc tài nhiều vô kể như nhạc sỹ Tô Hải hay nạn nhân của cái gọi là “Phản cách mạng” Nhân văn Giai Phẩm. Trong khi đó VNCH không có một cuộc thanh trừ nào kiểu như vậy, và quan trọng hơn cả VNCH không hề có một cuộc cách mạng thực chất là CẮT MẠNG người như “Cải cách ruộng đất - long trời lở đất”.

Thứ hai, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 189: “Nếu cứ tự do như VNCH th́ VNDCCH sẽ bị đánh mất chủ thuyết của ḿnh...” Tác giả này đă công nhận VNCH có tự do về tư tưởng và VNDCCH th́ ngược lại rất độc tài và quân phiệt chỉ nhằm giữ cho được “Chủ thuyết “ cộng sản sai lầm cho ḿnh nhằm cai trị nhân dân ta, đấy nhân dân ta đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!”).

Chỉ cần thấy câu: Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm (1954-1967) (Fatherland - Honour - Duty) và Tổ quốc - Công minh - Liêm chính (1967-1975) (Fatherland - Justice - Integrity) của VNCH đặt Tổ quốc lên trên hết cũng đă thấy khác hẳn với “Trung với đảng, hiếu với dân” của CHXHCNVN v́ đảng cộng sản đặt lợi ích của ḿnh trên cả nhân dân và chẳng thấy bóng dáng Tổ Quốc đâu cả.

Thứ ba, Giáo dục Việt Nam Cộng Ḥa mang triết lư giáo dục nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Ḥa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Điều này đă được minh chứng bằng việc học sinh đi học dưới chế độ VNCH không hề mất học phí. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng ḥa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chính và ở các trường đại học cộng đồng). Những con số nêu trên được lấy từ cuốn “Giáo dục Việt Nam” – NXB Giáo dục năm 2001 – cuốn sách của đảng cộng sản Việt Nam.

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng Ḥa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài G̣n. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bảndo Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa (1967). Theo văn bản phụ lục của hiến pháp VNCH ghi rơ:

“Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lư nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này, lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản, xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lư nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lư nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đ́nh, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xă hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xă hội, làm cho xă hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.”

Trong khi đó th́ ở VNDCCH, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng Mỹ “xâm lược” mà thực chất không phải vậy, “bác Hồ yêu nước, cả đời v́ nước v́ non” mà thực tế ngược lại khi bạn đọc 15 bài “Những sự thật không thể chối bỏ”và hàng trăm ngàn tư liệu, bằng chứng sống lại chứng minh được điều ngược lại. Hay là “yêu nước là phải yêu đảng cộng sản “ – một định nghĩa dốt nát và ấu trĩ.

Những bài thơ như của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết nữa...” lại được nhà trường VNDCCH gieo vào đầu con trẻ ư tưởng giết người ngược hẳn với xu thế nhân bản của thế giới nói chung và VNCH nói riêng.

Trên Website của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Hà Nam có bài viết nói về việc ông Hồ gửi thư cho học sinh nhân ngày 1-6. Trên báo Sự Thật, số 134 ra ngày 1-6-1950, đăng bức thư gửi thiếu nhi toàn quốc nhân ngày 1-6. Ông Hồ có viết: “Song ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc lột, th́ trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ”. Điều này cho thấy đảng cộng sản và ông Hồ chủ trương tuyền truyền bịa đặt ngậm máu phun người về cuộc sống của trẻ em ở những nước dân chủ trong đó có Mỹ và VNCH là bị “bóc lột”. Nh́n lại những người lính trẻ bị bắt buộc phải cầm súng khi chưa đủ tuổi thành niên thời trước hay nh́n cảnh tượng của trẻ em đang làm nô lệ t́nh dục, nô lệ lao động... ở Việt Nam hiện nay mới thấy được tuyên truyền của cộng sản chỉ là bịa đặt nhằm đưa đến một ư thức lệch lạc cho nhân dân.

Thứ tư, từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa). Theo tường tŕnh của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 th́ một trong những chủ đề khiến các nhà lănh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science th́:

“Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn v́ hai miền đă phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lănh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá tŕnh thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.”

Theo Galston, các nhà lănh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng ḥa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đă được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: "the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges").

Như vậy cho thấy ngay cả đảng cộng sản cũng phải thừa nhận nền giáo dục của VNCH chính là cái gương cho họ tự soi vào. Nhưng thực chất họ nói như vậy nhưng lại không làm như vậy chủ yếu chỉ để ngu dân, cai trị độc tài.

Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam:

“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng ḥa lúc đó biết lư lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, v́ vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xă hội chủ nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhăn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ v́ tôi nêu rơ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”

Đánh giá của nhà phê b́nh văn học Thụy Khuê:

“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xă hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương tŕnh giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới tŕnh độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản.”

Thứ năm, ngay từ thời điểm 1960-70 th́ cấu trúc của chính phủ VNCH đă đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh ngày hôm nay - Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện). Tự do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài G̣n so với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau gần 70 năm trời chứ chưa nói đến VNDCCH cùng thời điểm với VNCH. Vậy th́ tự do dân chủ ở đâu?

Dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, chính quyền đi theo chủ nghĩa Cần lao Nhân vị. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng Ḥa đă có một số thành tựu: xă hội ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế...

Hiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa rất hoàn chỉnh, theo mô h́nh của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa đă thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến. Quốc hội có những quyền hạn sau: Biểu quyết các đạo luật; Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế; Quyết định việc tuyên chiến và nghị ḥa, quyết định tuyên bố t́nh trạng chiến tranh; Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia; Hợp thức hóa sự đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội; Quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể. Chính phủ với đa số 2/3 tổng số dân biểu và nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lư do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ, Quốc hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số dân biểu và nghị sĩ.

Tính đến năm 1975 th́ Việt Nam Cộng Ḥa đă thiết lập ngoại giao với 87 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức.

Chúng ta có thể thấy ǵ khi VNCH có hàng chục đảng phái, tổ chức hoạt động chính trị c̣n ngược lại VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chỉ có 1 đảng độc tài duy nhất hoạt động với tiêu chỉ “Bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”. Ngoài ra ta phải thấy rơ ràng sự tự do trong bầu cử của VNCH khác hẳn với bầu cử theo sự sắp đặt của VNDCCH hay CHXHCNVN. Đó chính là sự tự do và dân chủ thật sự khác với tuyên truyền giả hiệu, ngậm máu phun người.

Thứ sáu, một tác giả của Trung cộng khác là Vương Văn khi viết cuốn sách “Tư bản hay dân chủ“”xuất bản tại Trung cộng năm 2002 cũng nói về VNCH như sau tại trang 92:

“Dân chủ trong chủ nghĩa tư bản cho nhân dân hưởng nhiều cái lợi nhưng lại là sự bất lợi cho chính quyền v́ chính quyền không thể kiểm soát nổi nhân dân tự do. Hăy nh́n Việt Nam Cộng ḥa ở Miền Nam Việt Nam làm tấm gương...”

Tác giả Trung cộng này cho rằng VNCH chính là một chính quyền tự do, dân chủ nên đă bị thất bại. Điều này không sai nhưng chưa đủ. V́ sao? V́ thực chất cái đúng là tác giả công nhận sự tự do dân chủ thật sự của VNCH. Tuy nhiên tác giả nên nhớ một điều rằng chính đảng cộng sản Việt Nam đă lợi dụng sự tự do và dân chủ này để gây chia rẽ, dẫn đến sự sụp đổ của một nền dân chủ non trẻ nhưng đă làm được những điều tốt đẹp lớn lao cho nhân dân miền Nam.

Thứ bảy, một khi để nói là VNCH là tay sai của Mỹ, là bán nước, là Ngụy quân, ngụy quyền th́ phải có bằng chứng rơ ràng. Nhưng như phần A tôi đă chứng minh Mỹ không hề xâm lược Việt nam, không lấy đất, biển đảo, tài nguyên của Việt Nam, cũng không sưu cao thuế nặng như Thực dân Pháp trước 1945 th́ VNCH đâu có bán nước, đâu có là “tay sai” như đảng cộng sản tuyên truyền?.
Quan trọng hơn, tại sao một chế độ bị vu cáo là “ngụy” lại anh dũng chống trả quân thù Trung cộng cướp nước c̣n CHXHCNVN lại “tri ân” giặc Tầu? Để mặc ngư dân bị đánh đập ngay trên biển đảo quê hương ḿnh? Ai là Ngụy th́ thực chất bạn đọc cũng tự t́m cho ḿnh câu trả lời rồi.

Thứ tám, Tự do tôn giáo cũng là vấn đề được đề cập tại VNCH. Chúng ta có thể thấy các cuộc biểu t́nh rầm rộ của giới tăng ni, cái chết của vị sư theo cộng sản Thích Quảng Đức... cho thấy chính quyền VNCH không hề đối xử phân biệt với các tôn giáo, không có hiện tượng đập phá nhà thờ như ở Thái Hà... hiện nay.

Để khẳng định điều này, xin trích lời của tác giả người Đông Đức đă giới thiệu ở trên “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 193:“Tự do tôn giáo ở Miền Nam là sự tổng ḥa cân bằng giữa các tôn giáo nhưng lại là điểm tựa cho đảng cộng sản ở Việt Nam lợi dụng để chiến thắng chính quyền ông Diệm, ông Thiệu...”

Thứ chín, một nét tiêu biểu đó là lĩnh vực y tế của VNCH tại thời điểm trước năm 1975 đă hơn hẳn CHXHCNVN hiện nay chứ đừng nói đến VNDCCH trước kia sau mấy chục năm “thống nhất, giải phóng “ ảo tưởng. Cụ thể VNCH vào thời điểm đó xây dựng được nhiều bệnh viện hiện đại của Đông Nam Á và không có cảnh 2-3 người nằm 1 giường như thiên đường XHCN.

“Dịch vụ y tế bắt đầu ở cấp xă. Mỗi xă có một ủy viên y tế và một nữ hộ sinh, thường gọi là "cô đỡ" trông coi và giúp đỡ sản phụ ở thôn quê. Ủy viên y tế làm việc dưới sự giám sát của Hội đồng xă.

Ở cấp quận th́ có Chi y tế dưới sự điều hành của cán sự y tế. Mỗi tỉnh th́ có một bệnh việnthuộc Ty y tế. Trưởng ty y tế là một bác sĩ phụ trách chương tŕnh y tế trong tỉnh. Giám đốc bệnh viện cũng là một bác sĩ y khoa. Bệnh nhân nhập viện vào các bệnh viện công cộng không phải trả tiền. Những bệnh viện công cộng lớn gồm có Bệnh viện Chợ Rẫy, V́ Dân, Bệnh viện Nhi Đồng Sài G̣n, và Từ Dũ.

Tổng số bệnh viện dân sự toàn quốc vào năm 1965 là 101 cơ sở với 25.000 giường. Riêng thủ đô Sài G̣n có 11 bệnh viện công cộng cung cấp gần 5.000 giường. Tính vào năm 1970 th́ trên toàn quốc có hơn 570.000 ca nhập viện.

Một số chuyên khoa có bệnh viện riêng như Bệnh viện Nhi đồng Sài G̣n (220 giường). Khoa tâm thần có ba cơ sở chính: Bệnh viện Chợ Quán ở Sài G̣n, Bệnh viện Huế, và Bệnh viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Ḥa.

Nằm ngoài hệ thống của chính phủ là các pḥng mạch, dưỡng đường và bệnh viện tư nhân (bốn bệnh viện ở Sài G̣n với hơn 800 giường). Vào giữa thập niên 1960 Việt Nam Cộng ḥa có khoảng 800 bác sĩ y khoa. Bệnh viện tư lớn phải kể Bệnh viện Grall và Bệnh viện Saint Paul ở Sài G̣n, Bệnh viện Sùng Chính (200 giường) ở Chợ Lớn ”

C̣n “thiên đường” bánh vẽ của chúng ta th́ sao?

“Chuyện 3, 4 bệnh nhân nằm chung một giường đă có từ lâu lắm rồi, nhưng thật đáng tiếc khi gần đây bộ trưởng Bộ Y tế mới biết và thấy nỗi khổ nhục của người bệnh. Người dân luôn đặt ra câu hỏi rằng tại sao khi xây các dự án nhà ở, các khách sạn, sân golf... mọc lên nhanh thế nhưng các bệnh viện xây mới lại không có hoặc rất ít (với tiến độ con rùa). Vậy mong các vị đứng đầu hăy quan tâm và trả lời cho cử tri biết... Rất nhiều bệnh viện quá tải, nhất là Bệnh viện Nhi Đồng, Bệnh viện Ung bướu, Bệnh viện Từ Dũ... người ta dễ "phát sợ hơn cả là bệnh" khi nh́n thấy cảnh đông đúc. Quá tải... chắc khoảng... 300% chứ không phải là vừa.”

Kết luận: VNCH là một nền dân chủ non trẻ nhưng thật sư là dân chủ trong cả tư tưởng, chính trị và tôn giáo, giáo dục... Nó khác xa với tuyên truyền giả tạo của VNDCCH và CHXHCNVN. Nhưng VNCH đă bị đảng cộng sản lừa bịp nhân dân, ngậm máu phun người để tuyên truyền họ là chế độ “Ngụy quân, Ngụy quyền”.
Kết luận chung: Qua các dẫn chứng tôi đă chứng minh hai điều: Mỹ không xâm lược Việt Nam và VNCH rất tự do và dân chủ. Vậy th́ luận điệu quy kết cho Mỹ xâm lược Việt Nam là bịa đặt. Và chính v́ không có kẻ xâm lược th́ làm ǵ có kẻ làm tay sai bán nước như cách VNDCCH và đảng cộng sản ngậm máu phun người cho VNCH - một chế độ dân chủ non trẻ thật sự.
Dẫu rằng quá khứ đă qua, VNCH trên thực tế đă không c̣n tồn tại. Nhưng trong ḷng những người dân đă từng sống tại miền Nam trước năm 75 và người thân của họ dù sống ở Hải Ngoại hay Việt Nam đều thương tiếc cho VNCH v́ họ hiểu rơ sự thật về một xă hội tốt đẹp đang h́nh thành dần theo năm tháng đă bị chính sách “ngậm máu phun người “ của đảng cộng sản Việt nam bức tử. Và trong bản thân chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên giữa xă hội toàn trị của đảng cộng sản nhưng cũng đă kịp nhận ra sự thật không phải như đảng cộng sản vẫn tuyên truyền.

Có thể khẳng định một câu ngắn gọn: VNCH không phải là “Ngụy” mà chính VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chính là Ngụy khi làm tay sai cho Trung cộng, Liên Xô và bức hại dân tộc Việt Nam gần 1 thế kỷ. Nhiệm vụ của chúng ta phải t́m hiểu và trả lại sự thật lịch sử để cho thế hệ sau phải biết và nhân dân hiểu được bản chất xấu xa chuyên “ngậm máu phun người” của đảng cộng sản Việt nam.

Như một lời tri ân từ đáy ḷng với những công dân yêu nước VNCH của một công dân trẻ sống trong chế độ độc tài cộng sản!



ST.


 
  góp ư kiến

 
   

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đă đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ư kiến

 
 

 


Nhà | Ghi danh Thành Viên | Thơ | H́nh ảnh | Danh Sách | T́m | Diễn đàn | Liên lạc | Điều lệ | Music | Link | Advertise

Copyright © 2024 Vietnam Single & Tim ban bon phuong All rights reserved.
Hoc Tieng Anh - Submit Website Today - Ecard Thiep - Hot Deal Network