nvdtdnguyen
member
ID 16276
10/19/2006
|
Logic học
Logic hay luận lư học, từ tiếng Hy Lạp cổ điển λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều đă được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đă trở thành có ư nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lư trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề c̣n đang được bàn căi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lư và luận cứ nào có chỗ không hợp lư.
Theo truyền thống, logic được nghiên cứu như là một nhánh của triết học. Kể từ giữa thế kỉ 19 logic đă thường được nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Là một ngành khoa học h́nh thức, logic nghiên cứu và phân loại cấu trúc của các khẳng định và các lư lẽ, cả hai đều thông qua việc nghiên cứu các hệ thống h́nh thức của việc suy luận và qua sự nghiên cứu lư lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng, đi từ các đề tài cốt lơi như là nghiên cứu các lư lẽ ngụy biện và nghịch lư, đến những phân tích chuyên gia về lập luận, chẳng hạn lập luận có xác suất đúng và các lư lẽ có liên quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic c̣n được sử dụng phổ biến trong lư thuyết lư luận
__________________________CÁC CHỦ ĐỀ TRONG LOGIC HỌC___________________
Qua suốt quá tŕnh lịch sử, đă có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt và lập luận không tốt, và do đó logic đă được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lư luận thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng hơn.
Các quan tâm về các loại logic khác nhau giải thích rằng logic không phải là được nghiên cứu trong chân không. Trong khi logic thường có vẻ tự cung cấp sự thúc đẩy chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lư do mà chúng ta quan tâm đến logic được đặt ra một cách rơ ràng.
-------------------------Logic tam đoạn luận--------------------------
Tác phẩm Organon là một công tŕnh của Aristotle về logic, với Phân tích tiên nghiệm (Prior Analytics) làm nên công tŕnh rơ ràng đầu tiên về ngành logic h́nh thức và giới thiệu h́nh thức tam đoạn luận. Các phần thuộc về tam đoạn luận, cũng c̣n được biết đến dưới cái tên lôgic cổ truyền hay lôgic hạng tử (term logic), là sự phân tích các phán đoán thành các mệnh đề gồm hai hạng tử liên quan với nhau bởi một trong số một số các quan hệ định trước, và biểu diễn của sự suy luận bằng tam đoạn luận bao gồm 2 mệnh đề có chung một hạng tử với vai tṛ giả thuyết, và một kết luận là một mệnh đề chứa hai hạng tử chưa có quan hệ với nhau trong giả thuyết.
Vào thời Cổ đại và thời Trung cổ ở châu Âu, công tŕnh của Aristotle được xem như là h́nh ảnh của một hệ thống đă được phát triển đầy đủ. Đó không phải là hệ thống duy nhất: các triết gia khắc kỷ (Stoics) đă đưa ra một hệ thống logic mệnh đề đă được nghiên cứu bởi các nhà logic học thời Trung cổ; và sự hoàn hảo của hệ thống Aristotle cũng không phải là không có bàn căi; ví dụ như vấn đề tổng quát hóa nhiều lần được nhận ra trong thời trung cổ. Tuy nhiên, những vấn đề với hệ thống tam đoạn luận không được xem là cần có những giải pháp mang tính cách mạng.
Ngày nay, một số học giả cho rằng hệ thống Aristotle nh́n chung là không có giá trị ǵ hơn ngoài giá trị lịch sử (mặc dù có một số quan tâm đến việc mở rộng logic hạng tử), nó được xem là đă bị lỗi thời bởi sự ra đời của lôgic mệnh đề và phép tính vị từ (predicate calculus). Những người khác sử dụng lôgic Aristotle trong lư thuyết lư luận để giúp cho việc phát triển và xem xét kỹ càng các sơ đồ lư luận sử dụng trong trí tuệ nhân tạo và trong luật pháp.
------------------------------Logic vị từ---------------------
Môn Logic như được nghiên cứu ngày nay rất khác với môn học đă được nghiên cứu trước đây, và sự khác biệt chính là sự phát minh của logic vị từ. Trong khi logic tam đoạn luận của Aristote định ra những dạng thức cho những phần có liên quan với nhau trong mỗi phán đoán, logic vị từ cho phép các câu được phân tích thành chủ đề và các luận cứ theo nhiều cách khác nhau, do vậy cho phép logic vị từ giải quyết được vấn đề tổng quát hóa nhiều lần - vấn đề đă làm bối rối các nhà logic học thời trung cổ. Với logic vị từ, lần đầu tiên, các nhà logic học đă có khả năng đưa ra các phép lượng hóa (quantifiers) đủ tổng quát để diễn tả mọi luận cứ có mặt trong ngôn ngữ tự nhiên.
Sự khám phá ra logic vị từ thường được coi là công của Gottlob Frege, người cũng được xem là một trong những sáng lập viên của ngành triết học phân tích, nhưng dạng phát biểu có hệ thống thông dụng nhất ngày nay của logic vị từ là logic bậc nhất (first-order logic) được tŕnh bày trong cuốn sách Các nguyên lư về logic lư thuyết (Grundzüge der theoretischen Logik) của David Hilbert và Wilhelm Ackermann vào năm 1928. Tính tổng quát có tính phân tích của logic vị từ cho phép h́nh thức hóa toán học và đẩy mạnh nghiên cứu về lư thuyết tập hợp, cho phép sự phát triển của cách tiếp cận của Alfred Tarski đối với lư thuyết mô h́nh; và không quá lời khi nói rằng nó là nền tảng của logic toán học hiện đại.
Hệ thống nguyên thủy của Frege về logic vị từ không phải là bậc nhất mà là bậc hai. Logic bậc hai được bảo vệ mạnh mẽ nhất bởi George Boolos và Stewart Shapiro (trước các phê phán của Willard Van Orman Quine và những người khác).
--------------------------------Logic mô thái---------------------------
Trong ngôn ngữ, tính mô thái nói đến hiện tượng các phần của một câu có thể bị thay đổi về ngữ nghĩa bởi các động từ đặc biệt hay các tiểu từ cách thức. Ví dụ, "Chúng ta đi xem trận đấu" có thể sửa lại thành "Chúng ta nên đi xem trận đấu", và "Chúng ta có thể đi xem trận đấu"" và có thể "Chúng ta sẽ đi xem trận đấu". Một cách trừu tượng hơn, chúng ta có thể nói rằng tính mô thái ảnh hưởng đến các hoàn cảnh trong đó chúng ta muốn một khẳng định được thỏa măn.
Các nghiên cứu về mô thái trong logic đă có từ Aristotle. Ông đă quan tâm đến mô thái của sự cần thiết và các khả năng - hai thứ mà ông thấy rằng chúng có tính đối ngẫu theo kiểu tính đối ngẫu De Morgan. Trong khi việc nghiên cứu sự cần thiết và các khả năng vẫn c̣n quan trọng đối với các triết gia, có rất ít đổi mới trong logic cho đến thời của những nghiên cứu quan trọng của Clarence Irving Lewis vào năm 1918. Ông đă hệ thống hóa một họ các hệ thống tiên đề cạnh tranh lẫn nhau của alethic modalities. Công tŕnh của ông đă mở ra một hướng cho một loạt các công tŕnh trong đề tài này, mở rộng các loại mô thái đă được xem xét để bao gồm cả logic nghĩa vụ (deontic logic) và logic tri thức (Epistemic logic). Công tŕnh hạt giống của Arthur Prior áp dụng cùng một ngôn ngữ h́nh thức để xử lư logic thời gian (temporal logic). Công tŕnh này đă mở đường cho việc kết hợp hai ngành học này. Saul Kripke khám phá ra (cùng với các đối thủ) lư thuyết của ông về khung ngữ nghĩa, nó đă cách mạng hóa các kỹ thuật h́nh thức hiện có cho các nhà logic học về logic h́nh thức và đưa và một cách nh́n mới vấn đề mô thái theo hướng lư thuyết đồ thị và đă dẫn đến nhiều ứng dụng trong các ngành ngôn ngữ tính toán và khoa học máy tính, chẳng hạn như logic động (dynamic logic).
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat