nvdtdnguyen
member
ID 17697
12/07/2006
|
VÀI NÉT LỊCH SỬ TIẾN HÓA VŨ TRỤ
Chúng ta đang sống trên Trái Đất, một hành tinh xanh duy nhất có sự sống trong hệ Mặt Trời và cũng là hành tinh duy nhất mà chúng ta biết rằng có tồn tại sự sống. Ngày nay chúng ta đều biết rằng cả hành tinh của chúg ta, hay cả Thái Dương cùng với tất cả các hành tinh, thiên thạch, sao chổi của nó, thậm chí cả Thiên Hà rộng lớn nơi chúng ta đă xuất hiện và phát triển cũng chỉ là một phần vô cùng nhỏ bé của vũ trũ. Bản thân con người chúng ta th́ lại là những thực thể nhỏ bé hơn nữa, đứng giữa vũ trụ. chúng ta chỉ như những phân tử nhỏ bé nhất như những phân tử hydro trong ḷng Mặt trời.
Nhưng hẳn rằng các bạn sẽ đều dồng ư rằng chúng ta tuy nhỏ bé, nhưng chúng ta khôg đơn giản là các sinh vật sống kí sinh trong vũ trụ v́ chúng ta không phải các sinh vật thụ động sống cuộc sống ngắn ngủi chỉ để hoàn thành ṿng đời của ḿnh mà không cần quan tâm đến những ǵ diễn ra xung quanh. Chúng ta quá bé nhỏ, c̣n vũ trụ th́ quá rộng lớn, nhưng chúng ta không kí sinh trong vũ trụ v́ chúng ta có thể quan sát vũ trụ, nghiên cứu nó và sử dụng những ǵ chúng ta t́m được phục vụ cho cuộc sống của chúng ta.
Ước muốn khám phá vũ trụ đă là một ước muốn có từ rất lâu, khi con người bắt đầu ra đời, khi xă hội bắt đầu h́nh thành. Từ những nhận thức sơ khai nhất, khi con người c̣n coi mỗi thiên thể là hiện thân của một vị thần, rồi lại tưởng chúng là những khối cầu khổng lồ đính trên các mặt cầu quĩ đạo quay quanh Trấi Đất. Rồi lại trên 1000 năm để người ta biết rằng Trái Đất cũng chỉ là một thiên thể quay quanh Mặt Trời, nhiều năm nâ để nhân loại có những chuyến thám hiểm đâu tiên trong hệ Mặt Trời của chúng ta. Cái nh́n của chúng ta hướng vào vũ trụ ngày một xa hơn. Nếu như trước đây người ta chỉ biết nh́n lên đỉnh đầu mà nói mỗi ngôi sao là một trái cầu lửa đang quay trên đầu chúng ta th́ ngay nay, người ta không những chỉ nh́n thấy những hành tinh, những sao chổi, thiên thạch xa nhất trong hệ Mặt Trời mà c̣n nh́n xa hơn nữa, vượt qua biên giới của hệ mặt Trời, của Milkyưay - Thiên hà rộng lớn của chúng ta. Cái nh́n của chúng ta được nối dài thêm mỗi ngày để chúng ta nh́n thấy những nới xa thẳm nhất của vũ trụ vô biên và ... như nhiều người vẫn nói, đó chính là chúng ta đang nh́n vào quá khứ của vũ trụ.
Quá khứ của vũ trụ, nó bắt đầu từ đâu? nó đă diễn ra như thế nào, đă có những giả thuyết nào và những cơ sở nào cho nó?
Trong phạm vi ngắn ngủi của tài liệu này tôi chỉ xin được tŕnh bày sơ qua về các lư thuyết vũ trụ học có liên quan và vài nét về lịch sử ra đời và tiến hóa của vũ trụ.
Tài liệu này có tham khảo một vài bài viết và sử dụng một số bức ảnh của các web nước ngoài.
Mỗi việc nghiên cứu đều phải có những phương tiện lí thuyết riêng và mối giả thiết đưa ra th́ đều phải có cơ sở của nó. Việc nghiên cứu lịch sử vũ trụ không phải ngoại lệ. Trước hết, xin được nói qua về vài lí thuyết và vái khám phá quan trọng đói với việc t́m kiếm quá khứ của chúng ta.
Thuyết tương đối tổng quát - Thấu kính hấp dẫn.
Năm 1905, lư thuyết tương đối hẹp lần đầu tiên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đánh dấu sự xuất hiện của nhà vật lí vĩ đại nhất thế kỉ - Albert Einstein(1879 - 1955). Cơ học cổ điển Newton, một lư thuyết đă được biết đến và luôn nghiệm đúng với thực tế suốt 300 năm cho biết thời gian là tuyệt đối và mọi chuyển động của không gian diễn ra trên cái nền tuyệt đối đó. Với sự ra đời của lư thuyết tương đối hẹp, Einstein khẳng định rằng thời gian cũng chỉ có tính tương đối, nó phụ thuộc hệ qui chiếu, và rằng mọi định luật vật lí một khi đă được chunứg minh là đúng th́ có nghĩa là nó luôn đúng khi sử dụng mọi hệ qui chiếu. Điều này hiểu đơn giản như sau: theo lư thuyết này, khi hai người A và B chuyển động so với nhau, ta có thể gán cho mỗi người một hệ qui chiếu cùng chuyển động, có nghĩa là tại hệ qui chiếu A th́ người A là đứng yên và tại hệ qui chiếu B th́ sẽ là tương tự với người B. Lư thuyết tương đối hẹp cho chúng ta biết rằng ở những thang vận tốc vĩ mô, tức là vận tốc chiếm những phần đáng kể so với vận tốc ánh sáng (cũng chính lư thuyết này chỉ ra rằng vận tốc ánh sáng là tuyệt đối và là lớn nhất) th́ đối với người A hoặc B , ho đều thấy các thông số về thời gian, độ dài theo phương chuyển động và khối lượng của người kia thay đổi. Tuy nhiên có một cái không đổi là các định luật vật lí. Nếu như A cho một cái bánh xe chạy một quăng đường 10m trong hệ qui chiếu của ḿnh hết 2s th́ khi đưa cái bánh xe đó sang hệ qui chiếu của B, A sẽ thấy con đường 10m ngắn lại nhưng cái bánh xe vẫn lăn hết con đường đó trong 2s v́ thời gian đă bị kéo giăn tương ứng. Và như vậy nghĩa là các định luật vật lí (ở đây là định luật Newton) vẫn luôn đúng khi chuyển sang các hệ qui chiếu quán tính khác nhau.
10 năm sau, tháng 11 năm 1915, Einstein tiếp tục hoàn thiện thuyết tương đối tổng quát của ḿnh (c̣n gọi là thuyết tương đối rộng) với hi vọng có một sự mô tả chính xác hơn về vũ trụ. Lư thuyết tương đối tổng quát cho chúng ta một phương tŕnh trường mô tả không gian và thời gian mà trong đó không gian sẽ bị bẻ cong tại những nơi tồn tại khối lượng lớn và do đó ánh sáng sẽ đi theo những đường cong trong không gian cong này (điều này được kết luận do khi đó lư thuyết lượng tử đă ra đời và cho phép coi ánh sáng là các hạt không khối lượng).
Sự lệch của các tia sáng khi đi qua các vật thể có khối lượng lớn (các ngôi sao) đă được kiểm chứng vào năm 1919 qua việc quan sát sự sai khác về vị trí của các ngôi sao khi có hiện tượng Nhật thực. Cuộc quan sát này đă góp một phần rất lớn khẳng định sự đúng đắn của lư thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Nó c̣n cho phép chúng ta tận dụng một hẹ quả của lí thuyết này trong việc quan sát các thiên thể và t́m kiếm quá khứ. Đó là thấu kính hấp dẫn(Gravitationallens).
Thấu kính hấp dẫn là hiện tượng ánh sáng từ các ngôi sao, các thiên hà ở xa khi đi đến Trái Đất bị bẻ cong khi đi gàna các ngôi sao lớn hay các thiên hà, sự bẻ cong ánh sáng ở ŕa của ngôi sao hay thiên hà chặn đường này làm các tia sáng từ thiên hà xa khi đến với chúng ta hội tụ lại giống như khi đi qua một thấu kính hội tụ và việc này cho phép chúng ta quan sát rơ hơn h́nh ảnh các thiên hà này (đă được phóng to nhờ chiếc thấu kính hấp dẫn)
Thuyết tương đối tổng quát c̣n đưa ra cho chúng ta một phương tŕnh trường mô tả vũ trụ mà các bạn sẽ biết rơ hơn về lịch sử của nó ở một phần sau của tài liệu này.
Sự dời xa của các thiên hà, vũ trụ giăn nở
Năm 1929, bằng các quan sát của ḿnh, Edwin Hubble phát hiện thấy một hiện tượng lạ trong phổ của các thiên hà quan sát được. Phổ của tất cả các thiên hà này đều dịch chuyển về phía đỏ một cách có hệ thống. Cụ thể, mức độ dịch chuyển này tỉ lệ với khoảng cách của các thiên hà đến chúng ta. Điều đó cho thấy tất cả các thiên hà này đều đang lùi xa ra khỏi chúng ta với tốc độ ngày càng lớn (tỷ lệ với khoảng cách). Việc này suy ra từ hiệu ứng Doppler, hiệu ứng này cho biết khi một nguồn sáng chuyển động dần ra xa người quan sát th́ bước sóng của nó đối với người quan sát sẽ tăng dần, vạch quang phổ của nguồn sáng xác định được trên các thiết bị quang phổ sẽ dịch chuyển về phía đỏ của dăy quang phổ. Nếu nguồn sáng chuyển động có gia tốc dương th́ tốc độ dịch chuyển của vạch quang phổ sẽ tăng. Và như vậy có nghĩa là khi một thiên hà chuyển động ra xa chúng ta với gia tốc dương (ngày càng chạy nhanh ra xa) th́ uang phổ của nó sẽ dịch rất mạnh về phía đỏ. Từ đó định luật Hubble ra đời:
v = Hr
với v là tốc độ lùi xa của thiên hà, r là khoảng cách đến Trái Đất và H là hằng số Hubble.
H ~ 75 km/s.Mpc
Mpc: megaparsec, 1pc = 3,26 LY (năm ánh sáng)
Như vậy, các thiên hà đều đang rời xa chúng ta từ tất cả mọi hướng. Từ đó có thể dễ dàng thấy rằng vũ trụ đang giăn nở với tốc độ rất lớn, tốc độ này được liên tục gia tốc, tức là càng ngày tốc độ giăn nở càng nhanh. Vậy phải chăng chúng ta đúng là trung tâm của vũ trụ khi mà tất cả các thiên hà đều đang rời xa ta về mọi phía như thế? Câu trả lời là không! Vũ trụ đang giăn nở không ngừng, đúng như thế. Tuy nhiên sự giăn nở này không có một tâm nào cả, chúng ta không phải là tâm của vũ trụ, thượng đế không ban cho con người Trái Đất một đặc quyền nào hết. Hăy tưởng tượng về một quả bóng bay nhé. Trên quả bóng đó có rất nhiều ngôi sao được trang trí cho đẹp. Bây giờ ta thổi quả bóng đó lên th́ tất cả các ngôi sao đó sẽ rời xa nhau về mọi phía. Dù ta đặt ḿnh vào vị trí của ngôi sao nào đi nữa ta vẫn thấy tất cả các sao xung quanh đang di chuyển ra xa ta theo mọi hướng, Ở đây cũng vậy. Trong ví dụ vừa rồi tôi đă áp đặt không gian 3 chiều của vũ trụ lên không gian 2 chiều bị uốn cong của bề mặt quả bóng đó. Cũng như vậy, tại mỗi ngôi sao, mỗi hành tinh, mỗi điểm bất ḱ trong vũ trụ ta đều thấy tất cả các thiên thể xung quanh đang rời xa ta theo mọi hướng bởi v́ vũ trụ của chúng ta đang giăn nở. Trước khi các bạn có một sự hiểu nhầm nào, xin được giải thích ngay như sau. Cái khác biệt ta cần biết ở đây là khi so sánh vũ trụ với quả bóng là so sánh về mặt thị giác c̣n thực chất có một sự khác biệt rất cơ bản về cái giăn nở của quả bóng và cái giăn nở của vũ trụ. Đó là với quả bóng, cái giăn nở của nó là khi ta thổi hơi vào th́ tức là ta đă cung cấp thêm cho nó năng lượng để nó tự tăng thêm khoảng không gian chiếm chỗ của ḿnh. Hay nói cách khác là sự tăng thể tích không gian làm cho các ngôi sao của nó rời xa nhau.
C̣n trong truờng hợp vũ trụ, không gian và các thiên hà được giới hạn bởi nó không có sự phụ thuộc lẫn nhau. Các thiên hà chạy ra xa nhau và việc không gian của vũ trụ được tăng dần lên được diễn ra đồng thời, không v́ không gian được tăng thêm thể tích trong một khoảng không nào đó mà các thiên hà phải rời xa nhau. Khi nói về lí thuyêt Bigbang, chúng ta sẽ thấy rằng vũ trụ không chiếm một khoảng không gian nào như quả bóng chiếm một khoảng không của chúng ta.
Lí thuyết BIGBANG
Lí thuyết BIGBANG được đề ra bởi George Gamov vào năm 1948
Đây là một lí thuyết về một vũ trụ đặc và nóng, có điểm khởi đầu. Lí thuyết này cho biết vũ trụ đă khởi đầu bằng một vụ nổ lớn (bigbang) diễn ra cách đây chừng 15 tỷ năm. Hiện nay không có một ngôn ngữ nào giúp chúng ta diễn tả về thời điểm này v́ thứ nhất nói một cách đơn giản là có ai biết về lúc đó đâu mà nói và chính xác hơn là nó thuộc phạm vi ngoài những cái ta biết về không gian và thời gian. Tạm thời ta có thể vẽ lại bức tranh tiến hoá của vũ trụ như sau:
+ t = 0. Vũ trụ ra đời bằng bigbang. không có ǵ để nói v́ thời gian này được giới hạn bởi bức tường Plank
+ t = 10^-43s. Thời gian Plank, kích thước vũ trụ là 10^-33cm, đây là những giới hạn lượng tử mà vật lí chưa thể vượt qua. Nhiệt độ của vũ trụ lúc này là khoảng 10^32K. Tất cả mọi trạng thái của vũ trụ là hết sức hỗn độn.
+ t = 10^-33s, nhiệt độ 10^27K. Thời ḱ lạm phát bắt đầu. Kích thước vũ trụ tăng rất nhanh, tăng thêm khoảng 10^50 so với thời điểm Plank. Gia tốc giăn nở ở thời ḱ cực đại trong lịch sử phát triển vũ trụ.
các quark và các lepton h́nh thành cùng với các phản hạt của chúng. Các barrion tạo thành từ các quark. các cặp quark và phản quark huỷ nhau tạo thành photon.
+ t = 10^-6s. Nhiệt độ 10^13K. Vũ trụ bước vào thời ḱ hadron. Nhiều photon và các cặp quark - phản quark bị tập hợp lại với nhau tạo thành các hadron (barion và phản barion). Khi toàn bộ các quark đă mất trạng thái tự do và lượng photon cân bằng để không tiếp tục biến hoá được nữa, thời ḱ hadron kết thúc.
+ t = 10^-3s, các lepton chiếm ưu thế trong vũ trụ và ở trạng thái cân bằng với các photon. Vũ trụ hết sức đạm đặc và các photon không thể vượt qua một lượng lớn các electron, proton và neutron tràn ngập vũ trụ. thời ḱ này chấm dứt khi các phản vật chất bị hủy diệt gần như toàn bộ.
+ t = 1s: thời ḱ bức xạ. các photon chiếm ưu thế trong vũ trụ nhưng vẫn chưa thể vượt qua bức tường proton và neutron. các dotron đầu tiên h́nh thành do sự kết hợp của proton và neutron (các dotron này không bền)
+ t = 3 phút: các neutron và proton không c̣n đủ năng lượng phá vỡ liên kết giữa chúng để thoát khỏi hạt nhân nữa,các dotron tiếp tục h́nh thành và kết hợp tiếp với các neutron khác để tạo thành Heli3, Heli4. các hạt nhân H và He h́nh thành liên tiếp và chiếm ưu thế trong vũ trụ.
+ t = 300000 năm, mật độ các proton và neutron đă giảm nhiều và photon có thể di chyển tự do trong vũ trụ. các electron cũng bắt dầu mất sự tự do. Chúng bị các hạt nhân bắt giữ và tạo thành các nguyên tử, mật độ vật chất trong vũ trụ bắt đầu có xu hướng không đồng đều do sự phân tán của các hạt nhân và điện tử. vật chất bắt đầu được định h́nh như ngày nay.
+ t = 1 tỷ năm, sự kết hợp các hạt cơ bản tạo ra các dạng vật chất gần giống với ngày nay, lượng khí vào buịo trong vũ trụ tăng lên rất nhanh và tập hợp lại thành từng nhóm, các thiên hà đầu tiên ra đời cùng các ngôi sao.
+ t = 15 tỷ năm: hiện nay
Lí thuyết BIGBANG này ngày nay đă được công nhận gần như tuyệt đối do nó có cơ sở dựa trên lí thuyết tương đối rộng, nguyên lí về "vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng" và sự dời xa của các thiên hà theo quan sát của Hubble.
Nguyên lí vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng nêu trên lúc đầu được gọi là "nguyên lí vũ trụ học" được đưa ra bởi A.Friedman. Đây là giả thuyết cho rằng vũ trụ là tương tự nhau ở mọi nơi và theo mọi hướng. Tức là xét trên mức độ vĩ mô, người quan sát ở bất cứ thời điểm nào và tại bất cứ nơi đâu cũng thấy vũ trụ là như nhau theo mọi hướng. Sau các khám phá về quá tŕnh tiến hóa và giăn nở của vũ trụ, nguyên lí này được bỏ bớt một ư, đó là sự đồng nhất về thời gian. Đúng như vậy, vũ trụ có biến đổi về thời gian nhưng dù đúng ở bất cứ điểm nào và quan sát về bất cứ hướng nào th́ vũ trụ cũng là như nhau.
Cho đến năm 1965, lí thuyết BIGBANG có thêm một khẳng định nữa khi bức xạ tàn dư của vũ trụ được Arno Penzias và Robert Wilson phát hiện. Penzias và Wilson đă phát hiện qua kính thiên văn vô tuyến một lọai bức xạ điện từ vi ba trên bước sóng 3cm. Đây là loại bức xạ tràn ngập vũ trụ và hoàn toàn đẳng hướng, có nghĩa là ta đo được nó từ mọi hướng. Loại bức xạ này hoàn toàn phù hợp với dự đoán của lí thuyết BIGBANG từ năm 1948 rằng loại bức xạ này phát ra sau BigBang khoảng 300 000 năm. Khi đó nhiệt độ vũ trụ là khoảng 100.000K.
Như vậy là theo thuết BigBang nói trên, tất cả chúng ta (vũ trụ) đă ra đời cách đây 15 tỷ năm (cũng chưa lâu lắm) bởi một vụ nổ. Ta không thể nói ǵ về nó v́ ngoài phạm vi của BigBang th́ không tồn tại vật chất và bức xạ, do đó không tồn tại khái niệm không gian và thời gian, từ duy nhất ta có thể dùng để chỉ nó là "không ǵ cả" (nothing). Chúng ta không thể có khái niệm không gian và thời gian vào trước khi BIGBANG xảy ra. V́ sao lại như vậy?
Như trên đă nói, toàn bộ vật chất (các hạt) chỉ được tạo thành bởi vụ nổ lớn (BIGBANG). Vậy có nghĩa là trước BB không hề có sự tồn taị của các hạt mà chúng ta đă biết. Như vậy là không có một sự khác biệt nào để phân biệt 2 điểm, như vậy là không gian không hề tồn tại. Mặt khác ta lại biết rằng thời gian chỉ là một đại luợng biểu diễn các quá tŕnh. Vậy ở đây ta sẽ sử dụng thời gian để làm ǵ khi không có sự biến đổi, sự chuyển động của các hạt. Vậy ta có thể đi đến kết luận tḥi gian cũng không tồn tại ngoài phạm vi của BIGBANG. Như thế th́ chúng ta lại có một lưu ư nhỏ là không bao giờ được phép nói rằng BIGBANG đă bùng phát tại "một điểm" v́ đơn giản là điểm th́ phải được xác định trong một không gian h́nh học nào đó trong khi ở đây ta không có không gian.
Vũ trụ hữu hạn nhưng vô biên
Như những ǵ ở trên đă nói, vũ trụ ra đời từ một vụ nổ lớn và nó đang không ngừng giăn nở. Thế th́ hẳn ai cũng hiểu một chân lí là những cái ǵ có kích thước xác định mới có thể hiểu được khái niệm giăn nở thôi. Đó là cơ sở để chúng ta kết luận rằng vũ trụ là hữu hạn. Bây giờ lại nảy sinh một thắc mắc: sự hữu hạn liệu có đồng nghĩa với khái niệm biên giới hay không? Nếu có th́ câu trên là vô nghĩa chăng?
Một lần nữa tôi xin lấy một ví dụ mà có lẽ sự so sánh này hơi khập khiễng một chút. Chúng ta hăy thử suy nghĩ về Trái Đất của chúng ta nhé. Chắc các bạn đều đồng ư với tôi rằng bề mặt Trái Đất nếu như ta tạm coi như nó không có lồi lơm của sông núi ǵ th́ có thể xem như nó là một mặt phẳng được uốn cong thành một mặt cầu. Như vậy mặt đất của chúng ta có 2 chiều. Bây giờ ta sẽ đi trên mặt đất đó. Chúng ta là sinh vật 3 chiều nhưng rơ ràng là khi không đạt được tốc độ vũ trụ cấp 1 th́ đường đi của chúng ta sẽ chỉ giới hạn trên mặt đất mà thôi, và thế là ta đang chuyển động trong phạm vi của không gian 2 chiều. Cái này chẳng nói làm ǵ nhiều th́ ai cũng biết nếu cứ đi theo đường thẳng (theo cách xác định đường thẳng trên mặt đất) th́ sớm muộn ta cũng quay lại điểm xuất phát. Vậy hăy thử hỏi một trong số những người đă qua cuộc hành tŕnh này như sau để nhận được những câu trả lời mà có lẽ các bạn đọc sẽ thấy đồng ư với tôi.
Hỏi: Trái Đất có giới hạn không?
Trả lời: có, nó hữu hạn v́ cứ đi măi ta lại về điểm cũ mà không thể tiến tới măi măi đến những vùng mới lạ được.
Hỏi: Thế biên giới của nó ở đâu?
Trả lời : không đâu cả v́ dù nó hữu hạn nhưng chúng tôi không làm thế nào thoát được ra khỏi nó. Hay nói chính xác th́ nó không có biên.
Vậy là với ví dụ vừa rồi, có lẽ các bạn đă tạm h́nh dung được v́ sao lại có thể kết luận về vũ trụ hữu hạn nhưng vô biên. Tất nhiên chưa có ai đi một ṿng quanh vũ trụ để lại trở về điểm cũ nhưng đây là một điều khó có thể nghi ngờ v́ nếu vũ trụ có một biên nào đó mà các photon không thể vượt qua th́ hẳn rằng tràn ngập vũ trụ sẽ là một đống các photon phản xạ bay theo đủ mọi hướng và các hiệu ứng hấp dẫn hẳn đă không cho phép chúng ta ngồi đây để thảo luận về nó.
Hiện nay lí thuyết BIGBANG với những luận điểm chính đă nêu ở trên đă được gần như thừa nhận hoàn toàn với những cơ sở như trên đă nói. Tuy nhiên dù nó có được công nhận thế nào th́ ta hăy cứ thử t́m hiểu một chút về một số giả thiết khác về sự tiến hoá vũ trụ mà ngày nay tuy không được thừa nhận nhưng cũng rất đáng chú ư.
(to be continue)
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat