okedoki
member
ID 19240
01/23/2007
|
Andrés Segovia - Cuộc đời và Âm Nhạc
Andrés Segovia
Có lẽ không có nhạc sĩ nào vào đầu thế kỷ 20 lại có thể tiêu biểu cho ư niệm lư tưởng của công chúng thế kỷ 19 về mẫu người nghệ sĩ như là danh cầm guitar Andrés Segovia (1893-1987). Suốt sự nghiệp 78 năm tŕnh diễn, con người vĩ đại của cây guitar Tây Ban Nha đă thực sự chuyển tải h́nh ảnh của một con người giữ nguyên chất thời đại Lăng Mạn, một kẻ duy mỹ không hiểu sao lại lạc bước vào một thời đại khác, kém mỹ miều hơn.
Giống như nhạc cảm của ông, tài nghệ âm nhạc của Segovia cũng tinh tế khác thường và tài nghệ ấy càng góp phần tạo nên h́nh ảnh của một con người thuộc về một thời đại khi mà nghệ sĩ trông giống nghệ sĩ, ăn mặc như nghệ sĩ, và mong đợi công chúng đối đăi với ḿnh như là nghệ sĩ.
Segovia chào đời ngày 21/2/1893. Từ thuở ấu thơ ở quê nhà Linares, miền nam Tây Ban Nha, Segovia đă mê đắm cây đàn guitar bất chấp sự phản đối gay gắt của người cha; ông ấy chỉ muốn con trai ḿnh đi theo ngành luật. Người cha kinh hăi khi thấy cậu bé đă si mê cây đàn tuy là nhạc cụ dân tộc nhưng vốn bị xem thường ấy. Ông cho Segovia học thử piano và cello nhưng các nhạc cụ quư phái kia không thể nào buộc cậu bé từ bỏ được mối t́nh với cây đàn guitar.
Mối t́nh ấy đă nhen nhúm ngay từ lúc cậu bé được nghe lần đầu tiên trong đời qua âm điệu của những nhạc công flamenco du mục. Người cha đă đập vỡ đến cây đàn guitar thứ ba của Segovia rồi đành bất lực. Ông không làm sao lôi kéo được cậu con trai thoát khỏi ma lực của thứ nhạc cụ hạ cấp chỉ dành cho dân di-gan múa may trong những hầm rượu tồi tàn. Rốt cuộc ông đành phải cho phép Segovia theo học danh cầm guitar Miguel Llobet một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, Segovia chủ yếu vẫn tự ḿnh khám phá lấy những kỹ thuật chơi đàn. Segovia được gia đ́nh gửi đi học nhạc ở Nhạc Viện Granada nhưng chỉ một thời gian cậu bé cũng bị "mời" ra khỏi trường. Không có chỗ cho cây đàn guitar trong thế giới âm nhạc cao quư thời đó! Thế là cậu bé bắt đầu cuộc hành tŕnh cô độc đi t́m lại quá khứ khả kính của cây đàn yêu dấu.
Segovia nhanh chóng phát triển được một kỹ thuật thượng thừa và một tri thức âm nhạc sắc sảo. Mới 16 tuổi, Segovia đă thực hiện thành công cuộc tŕnh diễn đầu tiên và tên tuổi của cậu bé liền lan truyền khắp đất nước Tây Ban Nha. Sáu năm sau, Segovia làm náo động thế giới âm nhạc Paris khi chàng tŕnh tấu với cây đàn guitar của ḿnh. Thành công đó dẫn dắt Segovia làm một chuyến lưu diễn khắp Nam Mỹ.
Tuy nhiên, măi đến lần tŕnh diễn chính thức tại Paris năm 1924, trước sự tham dự và xét nét của những nhạc sĩ và văn nghệ sĩ lỗi lạc, th́ Segovia mới thật sự nổi tiếng khắp châu Âu. Vào thời ấy, ít người được nghe âm nhạc thần thánh của Johann Sebastian Bach chơi bằng guitar hay thậm chí nghĩ đến một chuyện lạ lùng như vậy.
Những nhạc phẩm nguyên thủy được Bach viết cho cây đàn violon quư tộc khi được Segovia chuyển soạn lại cho guitar và tŕnh diễn đă bộc lộ không những thiên tài của chàng trai "phạm thượng" kia mà c̣n cho thấy tiềm năng của loại nhạc cụ sáu dây "đầu đường xó chợ" này.
New York lần đầu tiên nghe thấy tiếng đàn Segovia năm 1928 trong một buổi tŕnh diễn ở thính đường Ṭa Thị Chính. Các nhà phê b́nh sửng sốt: dưới những ngón tay thần của Segovia, sáu dây đàn guitar phô bày những âm sắc hết sức đa dạng và cực kỳ biểu cảm. Các buổi tŕnh diễn sau đó của Segovia ở New York và các thành phố khác trên đất Mỹ phải chuyển sang những thính đường lớn hơn để đủ chỗ chứa hết số lượng thính giả ngày càng đông.
Cái tên Andrés Segovia đă ghi vào lịch sử âm nhạc thế giới. Ông tiếp tục đeo đuổi sự nghiệp tŕnh diễn và ghi âm thu đĩa của ḿnh với sự trường thọ đáng kinh ngạc bất kể thị lực đă suy giảm v́ phải giải phẫu vơng mạc vào cuối thập niên 1960. Những nhạc sĩ có sức làm việc bền bỉ và được công chúng yêu mến lâu dài như Segovia chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Nếu không có sự gan ĺ trong bản chất th́ nhà quư tộc với tính khí và mỹ cảm phức tạp ấy đă không trở thành một nghệ sĩ biểu diễn lừng danh trong suốt 78 năm trời. Rất may là từ trẻ ông đă h́nh thành và không bao giờ đánh mất niềm tin đến mức cuồng tín vào tài năng và sứ mệnh của ḿnh.
Chính cái tôi ngạo nghễ của Segovia đă bảo vệ Segovia – một yếu tố không thể thiếu cho sự sống c̣n của bất kỳ người tŕnh diễn nào. Ngay cả những guitarist đồng nghiệp khá nổi tiếng của Segovia cũng khó chịu khi biết rằng những ai không trung thành với nghệ sĩ bậc thầy ấy, hay không tuân theo phương pháp hoặc ư nhạc của ông đều có thể bị thất sủng hay bị phủ nhận hoàn toàn.
Julian Bream, một trong những học tṛ cưng của Segovia, đă bị thất sủng bởi v́ Bream khăng khăng chơi cả đàn lute lẫn đàn guitar. Trước ư tưởng ngoại đạo ấy, bậc thầy phán: “Một tôi không thể thờ hai chúa.” Segovia cũng không đánh giá cao những phiêu lưu trong lănh vực nhạc pop của một môn đệ người Anh khác, John Williams và đặc biệt là của một số guitarist trẻ trong thập niên 1960 và 1970 khi họ bắt buộc phải chọn phe trong vấn đề này.
Bất kỳ ai tự gọi ḿnh là guitarist nhưng lại chọn cây đàn điện h́nh thù quái dị với dây nhợ ḷng tḥng như cuống rốn chưa ĺa đều lănh trọn sự khinh miệt của giáo chủ Segovia, bất kể việc một Beatles đă từng tuyên bố rằng Segovia là “cha của tất cả chúng ta.” Segovia bất cần sự tán thưởng của công chúng mà lại đ̣i hỏi sự chung thủy với truyền thống cổ điển – cái truyền thống ấy trong nhiều phương diện chính là một trong những yếu tố tạo dựng ra và duy tŕ cái tên Segovia.
Cái tôi quá lớn của Segovia có thể khiến ông phải chọn những vị thế cố chấp: người ta cho rằng ông từ chối tŕnh diễn hay ghi âm “Concerto de Aranjuez” của Rodrigo – một tác phẩm phổ thông nhất trong vốn tiết mục tŕnh tấu ghi âm cho đàn guitar – chỉ v́ nhà soạn nhạc mù người Tây Ban Nha ấy đă đề tặng bản concerto năm 1939 cho Sainz de la Maza, một guitarist khác
Để biện hộ cho Segovia, phải nói rằng bản thân ông không ưa chuộng mấy thể loại nhạc hợp tấu (ensemble), mặc dầu thỉnh thoảng ông có chơi các concerto của Ponce và Villa-Lobos, cũng như “Fantasia para un gentil hombre” của Rodrigo – một sự kính nể khá muộn màng của Rodrigo khi viết tặng cho chính Segovia bản concerto này vào năm 1954.
Trong vai tṛ người biểu diễn, ông vừa là nhung lụa vừa là sắt thép, một sự kết hợp mà cả ngàn môn đệ lẫn những kẻ bắt chước ông trên khắp thế giới không thể sao chép được.
Trong tất cả các cầm thủ tuyệt kỷ náo loạn của thế giới guitar ngày nay, không có âm thanh nào lại vừa tự nhiên lại vừa được nắn nót tinh vi như là tiếng đàn Segovia, đặc biệt là trong thời kỳ sung măn nhất của ông. Không ai có thể chơi “Leyenda” của Albeniz sánh được Segovia với những cảm xúc dữ dội bị kềm nén, những ḍng âm thanh trào dâng và chùng lắng, những màu sắc đa dạng của thanh âm, và với bầu không khí nhạc Ấn Tượng triền miên.
Vào thời mà các nhà âm nhạc học lẫn người biểu diễn đều coi trọng cách diễn tấu trung thực theo tính chất của thời đại âm nhạc, cách Segovia thể hiện “Chaconne” của Bach lại nghe rất riêng tư đến thảng thốt và đầy hơi hướm xa vời của chủ nghĩa Lăng Mạn, một cách diễn tấu có thể nói là lỗi thời trong một số phương diện. Thế nhưng những ai có khả năng cảm nhận được nhịp đập của cuộc sống ẩn giấu trong những nốt kư âm vẫn tin rằng dẫu Bach của thời Baroque có sống lại để nghe Segovia chơi “Chaconne” th́ Bach cũng phải gật đầu.
Những ngón tay, sự rọi phóng hiển hiện của cái thiên tài khuất lấp, là mối quan tâm không ngừng của Segovia suốt cả tuổi già lẫn những năm tháng son trẻ khi ông tự phát triển một kỹ thuật guitar riêng biệt cho ḿnh, dựa theo những ǵ biết được từ các bậc tiền bối như Fernando Sor, Dioniso Aguado, Napoleon Coste và Francisco Tárrega.
Theo truyền thống, người ta thường chơi đàn với móng của bàn tay phải (phương pháp Aguado) hay bằng đầu thịt của ngón tay (theo kiểu Sor và Tárrega). Segovia học hỏi và kết hợp cả hai kỹ thuật này; một kỹ thuật khiến cho cách tŕnh tấu của ông đầy những âm sắc muôn màu trước đó có lẽ chưa từng thấy ở cây đàn guitar.
Ông hợp tác chặt chẽ với những nhà làm đàn như Ramirez và Hauser để cải tiến cấu trúc của cây đàn guitar sao cho âm thanh nhỏ nhẹ bẩm sinh của nhạc cụ ấy có thể vang xa khắp các hội trường ngày càng lớn với thính giả ngày càng đông khi danh tiếng Segovia ngày càng lừng lẫy. Sự phóng âm ấy rất quan trọng nhất là sau Thế Chiến thứ II, khi giới phê b́nh và thính giả đă quá quen thuộc với âm lượng áp đảo của những danh cầm piano bấy giờ.
Bản thân Segovia không bao giờ nhượng bộ với âm thanh khuếch đại qua ampli của thời đại mới. Ông đă nghĩ ra nhiều cách lịch sự để làm thính giả im lặng trước khi ông bắt đầu chơi đàn. Những cách thức ấy đă trở thành một biểu tượng mang tên “tiếng suỵt Segovia”.
Vào những mùa mà những con vi-rút bí ẩn có thể khiến đôi ba thính giả co giật v́ những tràng ho bùng nổ, Segovia thường dừng giữa hai bài nhạc và đưa chiếc khăn tay lên miệng như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng. Nghe Segovia tŕnh diễn đ̣i hỏi một sự nhạy cảm vượt ngoài khả năng tai nghe đơn thuần. Óc tưởng tượng và sự cảm thông là điều bắt buộc bởi v́ như Stravinsky đă nói từ lâu: “Âm thanh của cây đàn guitar không những nhỏ nhẹ mà c̣n xa vắng.”
Dù không phải lúc nào cũng nghe rơ tiếng đàn Segovia, sự cách tân kỹ thuật thấy rơ nhất của ông ra đời sau Thế Chiến thứ II liên quan đến việc chấp nhận và tán thành sử dụng dây đàn nylon – một điều khiến guitarist khắp thế giới măi măi ghi ơn. Tất cả đều đồng ư rằng với dây đàn nylon, âm sắc hay hơn và nhất quán hơn trên cả sáu dây đàn, và sự tiện lợi do dây nylon mang lại là vô bờ bến.
Dây đàn làm bằng gân thú của thời xưa không những dễ bị lạc giọng hay đứt ngang vào những lúc bất ngờ nhất mà c̣n làm cho đầu đàn guitar xoắn vặn rối rắm mất thẩm mỹ. Với việc giáo dục là một thành phần trong di sản vô giá của Segovia, ông được công nhận như một trong những người thầy vĩ đại nhất thế kỷ này.
Thế nhưng khác hẳn với hầu hết mọi đồng nghiệp của ḿnh trong số những người tŕnh tấu nhạc cụ danh tiếng nhất của thế kỷ, bản thân Segovia lại không được đào tạo chính quy. Trước Segovia đă có sẵn một truyền thống guitar cổ điển với những danh cầm tuyệt kỷ như Coste, Aguado và Miguel Llobet, nhưng truyền thống ấy đă bị xem như một thứ âm nhạc nghiệp dư hay ch́m vào quên lăng, ngay cả ở Tây Ban Nha.
Những danh cầm kiêm sáng tác gia như Sor hay Tárrega lừng lẫy một thời ít được giới âm nhạc chuyên nghiệp biết đến, và đối với giới này th́ ngay cả những công phu của Paganini dành cho cây đàn guitar cũng chỉ là những huyền thoại mơ hồ.
Thực tế mà nói, chính âm thanh của tiếng đàn guitar flamenco được dân gypsy du mục gảy móc thô bạo đă mê hoặc Segovia ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ. Một sự mê hoặc tiền định. Segovia và cây đàn guitar như hai người t́nh của số phận và tiếng sét ái t́nh duy nhất thuở ban đầu đối với Segovia là những âm thanh gay gắt inh tai. Thế là Segovia bắt đầu mày ṃ tự học và trở thành người t́nh chung thủy với loại nhạc cụ đáng hoài nghi không hề có vốn nhạc tŕnh diễn và chủ yếu chỉ dùng để đệm cho những bài ca dân gian hay vũ điệu flamenco.
Những danh thủ tiền bối, như Coste, đă từng tŕnh tấu Bach trên cây đàn guitar; nhưng chỉ có Segovia mới có thể làm rúng động cả Paris với sự tinh thông Johann Sebastian trong buổi công diễn đầu tiên tại thủ đô Pháp năm 1924.
Lúc đó, ông đă tự tạo cho chính ḿnh và những tín đồ tương lai một vốn nhạc tŕnh tấu, mở rộng nỗ lực chuyển soạn của ḿnh vượt xa hơn nhạc của Bach để t́m tới âm nhạc của những tiền bối khả kính xa xưa hơn như Scarlatti, Handel và Purcell, đồng thời cũng ḍ t́m trong kho tàng âm nhạc của những danh cầm đàn lute cổ xưa như Sylvius Leopold Weiss và Dowland.
Ông c̣n “xâm lược” (những kẻ xấu miệng đă từng bảo như thế) sang cả vốn nhạc piano linh thiêng – Chopin, Brahms, Albeníz, Granados, Debussy and Scriabin. Các nhạc sĩ nổi danh khác như Castelnuovo-Tedesco, Tansman, Rodrigo, Ponce, Lauro, và Moreno Torroba cũng đă sáng tác hàng chục tác phẩm cho Segovia hay cho các môn đệ của ông.
Hàng hàng lớp lớp các môn đệ cũng như đối thủ, những kẻ đă được công chúng chấp nhận nhờ thành công của Segovia, đă chiếm lĩnh những đỉnh cao mà Segovia đă giành được, tràn ngập các pḥng ḥa nhạc và pḥng ghi âm. Ttrong số đó không chỉ có Julian Bream và John Williams mà c̣n có Rey de la Torre, Eliot Fisk, Laurindo Almeida, Siefried Behrend, Christopher Parkening, Kazuhito Yamashita, David Starobin, Frederic Hand, Sharon Isbin, Liona Boyd, Konrad Ragossnig, Alirio Diaz, Pepe và Angel Romero, Narciso Yepes, Ida Presti, Alexandre Lagoya và Leo Brouwer, vv.
Danh sách ấy c̣n có thể kéo dài hơn nữa. Vị chỉ huy già đă ngă xuống nhưng ngọn cờ của ông vẫn tung bay. Đoàn quân của ông xông tới củng cố những đồn lũy mà ông đă khó khăn mới chiếm giữ được và không ngừng chiêu mộ những tân binh mới vào hàng ngũ.
Guitar cổ điển trở thành một bằng cấp tiêu chuẩn ở nhiều đại học và nhạc viện, và đây đó đă xuất hiện những nhà phê b́nh âm nhạc có hiểu biết về cây đàn guitar và kho tàng âm nhạc của nó. Những nhà phê b́nh này có lẽ chính là đài tưởng niệm ghê gớm nhất của Segovia, một "giống loài âm nhạc" được khai sinh và tồn tại hoàn toàn nhờ công sức của một ḿnh ông.
Suốt một cuộc đời dài đầy những thành tựu mang tên ḿnh, Segovia chắc chắn phải hiểu rơ giá trị của ḿnh hơn bất kỳ nhà phê b́nh nào. Kẻ tự học kiêu hănh này thích thú bông đùa về lợi thế của việc không có thầy: “Cho tới hôm nay, thầy và tṛ chưa hề có trận căi nhau nghiêm trọng nào.” Bằng cách nào Segovia có được đôi cánh mạnh mẽ đưa ông bay bổng tới những tầng trời cao nhất của nghệ thuật? Điều đó măi măi là một bí mật.
Ngay khi c̣n sống, ông đă chiếm lĩnh một vị trí trong ngôi đền của những danh cầm thế kỷ, bên cạnh Rubinstein, Casals, Toscanini, Heifetz và Horowitz. Giống như các danh cầm kia, ông quyến rũ được công chúng là nhờ ghi âm thu đĩa. Sự nghiệp nửa thế kỷ ghi âm của Segovia bắt đầu tại London ngày 2 tháng Năm 1927 và kết thúc với lần thu tại Madrid ngày 23 tháng Sáu 1977.
Vào những năm cuối đời, Segovia vẫn c̣n nhận được tiền tác quyền của đĩa nhạc ghi âm đầu tiên dạo ấy. Segovia đă ghi âm hơn 30 đĩa nhạc và các đĩa ấy đă được tái bản liên tục cho tới bây giờ.
Trong những thập niên cuối cùng, Segovia tổ chức nhiều lớp chuyên tu (master class) ở Santiago de Compostella, Tây Ban Nha cũng như ở nhiều nhạc viện trên khắp thế giới. Ba tháng trước khi từ trần, Segovia vẫn c̣n giảng dạy trong những khóa chuyên tu như vậy ở Nhạc Viện Manhatten và thính đường Carnegie Hall, Hoa Kỳ. Ông cũng từng giảng dạy nhiều năm ở Siena, Italia. Được thụ giáo Andrés Segovia là một nhăn hiệu công nhận quốc tế đối với nhiều guitarist thế hệ sau như Julian Bream, John Williams, Eliot Fisk và Christopher Parkening.
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Segovia kết thúc bằng một quyết định ly dị năm 1951. Mười năm sau, ông thành hôn với người vợ kế Emilia del Corral. Khi ấy ông đă 68 tuổi trong khi Emilia chỉ mới ngoài 20. Emilia từng là môn đệ guitar của ông suốt 12 năm trời. Cậu con trai của họ, Carlos Andrés, chào đời khi Segovia đă 77 tuổi. Cậu bé này cách biệt hai người con đầu của Segovia đến nửa thế kỷ!
Segovia có lần bông đùa với một nhà báo trong một cuộc phỏng vấn: "Tôi nổi tiếng là một người cha hơn là một nhà nghệ sĩ!" Sức khỏe dần suy giảm theo thời gian, Segovia không c̣n duy tŕ được nhịp độ căng thẳng của 100 lần biểu diễn một năm như trước. Ông lui về nghỉ ngơi trong một ngôi nhà trên đỉnh đồi ở Granada quê hương. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục duy tŕ khoảng 10 buổi tŕnh diễn mỗi mùa và dạy các lớp chuyên tu gần như đến tận cùng cuộc đời ḿnh – một cuộc đời với t́nh yêu bất diệt dành cho cây đàn guitar.
Nh́n lại lịch sử âm nhạc, thật ngạc nhiên khi thấy rằng chỉ có ít nhạc sĩ có thể làm thay đổi đáng kể lịch sử của loại nhạc cụ họ chọn lựa. Listz, Paganini và Casals đă làm thay đổi lịch sử của piano, violon và cello, chủ yếu qua những cải tiến cách mạng về mặt kỹ thuật. Wanda Landowska đă làm thay đổi số phận của cây đàn harp.
Trong danh sách cực kỳ ngắn ấy, ta có thể thêm vào cái tên Andrés Segovia. Thế giới âm nhạc đă từ lâu công nhận rằng Segovia không những đă hoàn thiện kỹ thuật của một vài người tiên phong ở thế kỷ 19 mà c̣n vượt xa hơn cả các bậc tiền bối ấy trong tài soạn nhạc nữa.
Những ǵ Segovia đạt được trong sự nghiệp biểu diễn chính là sự tái sinh – một số người dám nói là sự khai sinh – của cây đàn guitar như một nhạc cụ tŕnh tấu nghiêm túc. Cả cuộc đời ông là một cuộc thánh chiến để cứu vớt chiếc đàn sáu dây này thoát khỏi cảnh thấp hèn của một nhạc cụ “du đăng”.
Giờ đây, khi thế kỷ 21 bắt đầu ló dạng, sứ mệnh của nhà tiên tri đă hoàn thành. Cây đàn guitar cổ điển – sở dĩ được mang cái tên này là do cấu trúc truyền thống và phương pháp chơi đàn chứ không phải v́ vốn nhạc của nó – đă có chỗ đứng đàng hoàng trên sàn diễn bên cạnh những nhạc cụ độc tấu nổi bật nhất: violon, piano, cello.
Khi Segovia bước vào những năm tháng cuối đời, những buổi tŕnh diễn của ông vẫn liên tục đầy ắp thính giả. Segovia là một minh chứng cho sự trường thọ và sung măn. Ông là một trong số rất ít những nhạc sĩ vẫn c̣n tŕnh diễn ở tuổi 80 và 90. Lúc cuối đời, khi mắt ông bị cườm và thị giác đă mờ phải dùng đôi mắt kính dày cộm mới thấy rơ, một người bạn quan tâm hỏi ông sao vẫn tiếp tục làm việc quá sức ở cái tuổi già lăo này. Ông đáp – một câu trả lời đối nghịch tiêu biểu Segovia:
“Tôi c̣n cả thiên thu để an nghỉ.”
(Donald Henaban, “The Segovia Legacy”)
Sưu Tầm
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
ototot
member
REF: 121244
01/23/2007
|
Tôi chưa biết có kiếm được bản nhạc độc tấu guitar cuả Andres Segovia để upload và đăng lên đây không??? Hay là ai có th́ xin upload và đăng lên đi.
Thân ái,
|
|
cafekho
member
REF: 121247
01/23/2007
|
Chiều d́a Cafe t́m thử coi có ko ..
(chỉ sợ ko có hay cái đuôi Mp3 th́ ko nghe được bằng FF)
Cafe có tắt lệnh autostar="false" OT à , mà nó cứ mặc nhiên chạy auto .. ko hỉu .. OT chỉ cafe xem ..
HH.
hè hè hè...
======================
|
|
ototot
member
REF: 121379
01/24/2007
|
Thực ra, tôi cũng không mê HTML nhiều, chỉ cần biết vưà đủ để lên web thôi, v́ bản thân HTML cũng có nhiều rắc rối đối với những nhà làm web mà!
Bây giờ để tôi post thử bản Grand Sonata cuả Paganini, do danh cầm Guitarist Gary Rodriguez độc tấu guitar trong 8'13" dưới đây :
Mong các bạn thưởng thức.
Thân ái,
|
|
okedoki
member
REF: 121833
01/25/2007
|
Mời các bạn thưởng thức hai bài do Andres Segovia tŕnh diễn
1) Gavotte On Rondeau
2) Bourree
Enjoy!
|
|
guest
REF: 126042
02/08/2007
|
Cam on CH
|
|
guest
REF: 126044
02/08/2007
|
Cam on CH
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|