hoangxuanvy
member
ID 53009
06/15/2009
|
Một lời "sấm" kỳ lạ
Lịch sử Việt Nam ngàn năm dựng nước và giữ nước không kể hết những nhân tài, những anh hùng hào kiệt đă xuất hiện và góp phần tô thắm những trang sử hào hùng.
Những câu chuyện được ngàn đời sau nhắc đến rất ít điều kỳ lạ được chính sử ghi lại mà thường là dân gian truyền khẩu như một giai thoại.
Câu chuyện về một nhân tài nước Việt - trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được nhắc đến trong hoàn cảnh như thế...
...Trước khi qua đời, Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại th́ sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm vơng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Tŕnh th́ lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà th́ cái xà rơi xuống đúng chỗ vơng đang nằm. Quan sợ hăi vội mở thư ra xem th́ chỉ có mấy chữ:
"Ngă cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngă thất thế chi tôn
(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)
Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.
Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ư đề pḥng, vừa căm giận Trạng Tŕnh. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Tŕnh.
Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đ́nh cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra th́ một cái hộp nhỏ đă để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa tŕnh chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
"Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền th́ lại làm đền
Nào ai cướp nước tranh quyền ǵ ai".
Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đ́nh, xin làm lại đền thờ Trạng Tŕnh.
...
Ngồi buồn tản mạn vài ḍng để tỏ ḷng tri kính tiền nhân, những người đưọc tôn vinh là "trên thông thiên văn, dưới tường địa lư" cái ǵ cũng biết... Biết được cả những điều sẽ xảy ra mấy thế kỷ sau...
HXV St
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
hoangxuanvy
member
REF: 456510
06/17/2009
|
Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi 1491, thuộc đời vua Lê Thánh Tông Hồng Đức thứ 22 tại thôn Trung An, làng Cổ An, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương. Nguyễn Bỉnh Khiêm huư là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, người làng Tŕnh Tuyền (Trung An), huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Pḥng. Thân phụ là cụ Văn Đ́nh, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, người đất Tiên Minh, làng An Tử hạ. Ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cụ Nhữ Văn Lan, đă làm rạng rỡ ḍng họ và quê hương với bảng vàng tiến sĩ, khoa thi năm Quư Mùi, niên hiệu Quang Thuận, đời Lê Thánh Tông, được nhà vua tin dùng, phong chức Thượng thư bộ Hộ.
Theo tài liệu để lại, bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa vào bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ. Con gái Hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lân, được phong là Từ thục phu nhân. Bà giỏi văn chương và tài học về Lư số. Biết trước những ǵ có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận không thể chờ thời. Như Nguyễn Du đă viết sau này “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Trạng Tŕnh có người em cũng tài giỏi về lư số, người đời gọi là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cùng mẹ khác cha.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc trẻ ông học với Lương Đắc Bằng được truyền cho quyển “Thái Ất thần kinh” từ đó ông tinh thông về Lư học, Tướng số học giỏi, nghiên cứu về lư số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về thấu thị, thần giao cách cảm, chờ đúng số mệnh năm 44 tuổi dự thi đỗ Giải Nguyên, đời nhà Mạc (1527-1592), làm việc bên cạnh Tả thị Lang, Đông Các Đại Học Sĩ, làm quan được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua nghe không. Ông cáo quan năm 1542 về quê, lập Bạch Vân am, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, mở trường dạy học cạnh sông Hàn - c̣n có tên Tuyết giang nên học tṛ gọi ông “Tuyết giang Phu tử“. Thơ mang triết lư của Thái Ất là nguồn tri thức hữu thể, về đời sống nhân sinh với càn khôn trong vũ trụ. Thái Ất c̣n gọi là Lư Thiên, Lư Địa và Lư Nhân.
”Ngư ông bất ngộ Đào Nguyên khách
Khởi thức hưng vong thế cổ kim”
hay
”Nhàn trung hoa thảo túc Cung xuân
Tà dương độc lập đô vô sự”
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không c̣n làm quan, nhưng được Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Tŕnh Nguyên Hầu vào năm Giáp Th́n (1544), ngụ ư đề cao ông có công khơi nguồn nghành lư học, giống như (Tŕnh Y Xuyên, Tŕnh Minh Đạo bên Trung Hoa). Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại, tước hiệu Tŕnh quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Tŕnh. Nhờ học phương pháp tính theo Thái Ất, tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm rằng “An Nam lư học hữu Tŕnh Tuyền”.
Tục truyền rằng Năm Bính Ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên măi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm th́ mất không có con nối nghiệp. Trinh Kiểm muốn làm vua nhưng c̣n sợ dư luận, nên sai người đến Hải Dương hỏi ư khiến Trạng tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không nói ǵ chỉ bảo người giúp việc ngụ ư: “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên t́m giống cũ mà gieo mạ, giữ chùa thờ Phật th́ ăn oản..“ Sau đó Trịnh Kiểm hiểu ư ông nên t́m con cháu họ Lê, lên làm vua.
Dù Trạng Tŕnh ở ẩn, vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ư ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tông) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn tiếng tăm với đời. Lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Đăng Dung cũng cố ư muốn tranh quyền, đánh nhau mấy năm dài. Ông tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khôi phục được làm bài thơ:
”Non sông nào phải buổi b́nh thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên pḥng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi”
(1) Ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục
(2) Ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Trạng Tŕnh có 3 người vợ và 12 người con (7 trai, 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng:
"B́nh sinh ta có tấm bia đá sẵn và dă sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" th́ phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, ḍng dơi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy".
Con cháu nghe lời, làm y như đă dặn. Nhưng chờ măi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nh́n mộ cụ một lúc rồi nói: "Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân ǵ chớ, họa chăng là thánh nhân mắt mù". Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách người Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi t́m xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đă nghe tiếng đồn.
Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn ḷng làm ngay, và tự đắc cho rằng ḿnh giỏi hơn Trạng Tŕnh. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lư Tầu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những ǵ trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch nghĩa như sau:
"Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu.
Biết ǵ những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?"
Đọc tới đâu vị khách người Tầu đổ mồ hôi hột đến đó, ra Trạng Tŕnh mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. So với Trạng, ông c̣n thua xa.
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính trạng Tŕnh, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, v́ khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
"Cha con thằng Khả. Đánh ngă bia tao
Làng xóm xôn xao. Bắt đền tam quán"
Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. Chỉ t́m được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ mới t́m được cách, cha con bèn nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng Tŕnh bắt phạt có quan tám, "Tam quán" nói lái lại thành quan tám. Đúng như cha con ông Khả đă t́m đủ số tiền.
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá tŕnh dạy dỗ, bà đă truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và t́nh cờ hát:
"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy th́ bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi ("nguyệt" chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng".
Ông Định hoảng sợ v́ nếu triều đ́nh hay được sẽ mất đầu v́ tội khi quân, nên đă sửa lại:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất b́nh nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học tṛ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí v́ họ Phùng không có chí làm vua.
Măi sau này bà Nhữ t́nh cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối v́ cho rằng người này có số làm vua, c̣n tuổi ḿnh đă cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
HXV St
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|