rongchoi123
member
ID 64257
10/17/2010
|
Đọc qua cho biết chút chơi (tiếp theo)
Sao mà giống VN, chỉ mấy ông về hưu rồi mới dám nói, mấy ông này khi c̣n chức, c̣n quyền có dám nói hay không?
Dân biết từ lâu, nhưng không ai dám nói cả.
Thư ngỏ của 23 cán bộ lăo thành Trung Quốc
kêu gọi băi bỏ kiểm duyệt,
tôn trong tự do ngôn luận và tự do báo chí
Lời người dịch: Ngày 11 tháng 10, 2010, 23 cán bộ lăo thành của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, được biết đến như là những nhà ủng hộ cải cách, gồm Lư Nhuệ, cựu bí thư của Mao Trạch Đông, và Hồ Tích Vĩ cựu Tổng Biên Tập Nhân Dân Nhật Báo Trung Quốc, đă cùng viết và kư tên trong một Bức Thư Ngỏ gửi đến Ban Thường Vụ Quốc Hội Trung Quốc, cơ quan đầu năo của chính phủ Trung Quốc, kêu gọi chấm dứt việc ngăn cấm quyền tự do ngôn luận tại Trung Quốc. Sau đây là toàn bộ nội dung của Bức Thư Ngỏ này.
Kêu Gọi Thực Thi Điều 35 Hiến Pháp Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, Băi Bỏ Kiểm Duyệt và Công Nhận Quyền Tự Do Ngôn Luận và Quyền Tự Do Báo Chí: Thư Ngỏ Gửi Ban Thường Vụ Quốc Hội Trung Quốc
Đồng chấp bút bởi Lư Nhuệ, Hồ Tích Vĩ và nhiều người khác.
Ngày 11 tháng 10, 2010
Kính gửi các thành viên Ban Thường Vụ Quốc Hội,
Điều 35 Hiến pháp Trung Quốc, được thông qua năm 1982, đă nêu rơ: "Mọi công dân của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc đều được hưởng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do diễn hành, và tự do biểu t́nh". Nhưng 28 năm qua, điều này chưa bao giờ thành hiện thực và trái lại c̣n bị gạt bỏ hoàn toàn do những luật lệ và cấm đoán khắt khe v́ mục tiêu “lề phải”. Kiểu dân chủ trá h́nh, sử dụng chiêu bài pḥ chính thống và thẳng thừng bác bỏ này, đă và đang trở thành những tai tiếng đối với nền dân chủ thế giới.
Ngày 26 tháng 2 năm 2003, tại một cuộc họp khoáng đại giữa Uỷ Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và các đảng dân chủ, Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, chỉ ít lâu sau khi ông lên nhậm chức, đă tuyên bố: "Việc loại bỏ các rào cản đối với báo chí và việc dành cho công luận một vị trí xứng đáng là phù hợp với trào lưu và đ̣i hỏi chính đáng của xă hội; đây là điều tự nhiên, và nên được giải quyết thông qua tiến tŕnh lập pháp. Nếu không biết tự cải tổ và nếu không chịu thay đổi, Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ đánh mất sức sống và sự đào thải là điều không thể tránh khỏi".
Gần đây nhất vào ngày 03 tháng Mười, 2010, kênh truyền h́nh cáp CNN đă phát sóng cuộc phỏng vấn Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Trả lời các câu hỏi của phóng viên Fareed Zakaria, Ôn Gia Bảo cho rằng: "Tự do ngôn luận là quyền bất khả phân ly đối với bất kỳ quốc gia nào; Hiến pháp Trung Quốc công nhận quyền tự do ngôn luận; không thể chối bỏ các đ̣i hỏi dân chủ của nhân dân".
Thể theo Hiến Pháp Trung Quốc và trên tinh thần những nhận xét của Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ Tướng Ôn Gia Bảo, chúng tôi, những người đồng kư tên trong Bức Thư Ngỏ này, xin đệ đạt những điều cần phải làm sau đây nhằm thực thi các quyền hiến định về tự do ngôn luận và tự do báo chí tại Trung Quốc:
Hiện Trạng Của Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí Trong Nước
Thấm thoát đă 61 năm của cái gọi là "nhân dân làm chủ" tại Cộng ḥa Nhân Dân Trung Quốc nhưng tự do ngôn luận và tự do báo chí chúng ta đang được hưởng hiện nay c̣n quá kém nếu đem so sánh ngay cả với Hồng Kông, mặc dù chỉ là một thuộc địa, trước khi được trao trả chủ quyền về cho Trung Quốc.
Trước khi được trao trả, Hồng Kông chỉ là một thuộc địa của thực dân Anh và chịu sự cai quản bởi những người do chính phủ của Nữ Hoàng Anh bổ nhiệm. Nhưng tự do ngôn luận và tự do báo chí mà các cư dân của Hồng Kông được chính quyền Anh cho phép, không chỉ là những lời sáo rỗng mà được ghi trên giấy trắng mực đen, được công nhận, và được thực thi nghiêm túc.
Khi đất nước được thành lập vào năm 1949, dân chúng Trung Quốc đă sung sướng đến phát khóc v́ tin rằng họ đă được giải phóng, và không c̣n lo sợ ai nữa. Mao Trạch Đông tuyên bố rằng, "Từ nay trở đi, người dân Trung Quốc đă ngẩng cao đầu". Nhưng đến hôm nay, 61 năm sau ngày lập quốc, 30 năm sau mở cửa và cải cách, chúng ta vẫn chưa đạt được tự do ngôn luận và tự do báo chí bằng mức độ mà người dân Hồng Kông từng được hưởng dưới thời thuộc địa Anh. Ngay cả bây giờ, nhiều sách báo thảo luận về chính trị và thời sự vẫn phải xuất bản tại Hồng Kông. Đây không phải điều mới xảy ra từ ngày Hồng Kông được trao trả mà là một thủ thuật cũ rích đă có từ cái thời Trung Quốc c̣n là một thuộc địa. Việc thực thi quyền "nhân dân làm chủ" tại Trung Quốc lục địa hiện nay c̣n rất kém, do đó việc chúng ta tự cho ḿnh là một quốc gia "dân chủ xă hội chủ nghĩa" mang sắc thái Trung Quốc là một điều nên lấy làm xấu hổ.
Không chỉ đối với các công dân b́nh thường, nhưng ngay cả các nhà lănh đạo cao cấp nhất của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không được hưởng tự do ngôn luận hay tự do báo chí. Cách đây ít lâu, Lư Nhuệ đă gặp phải một t́nh huống như thế liên quan đến việc xuất bản một tuyển tập để tưởng nhớ Chu Tiểu Châu. Trong tuyển tập này đáng lẽ đă có một bài viết của Lư Nhuệ ca ngợi Chu Tiểu Châu và từng được đăng trên Nhật Báo Nhân Dân vào năm 1981. Lư do bài viết không được in trong tuyển tập v́ trước đó vợ của Chu Tiểu Châu đă gọi điện thoại cho Lư Nhuệ để tường tŕnh vụ việc như sau: "Bắc Kinh đă gửi một thông báo. Không thể để bài viết của Lư Nhuệ vào trong ấn bản của tuyển tập". Chỉ có điên rồ mới có thể tin rằng là một bài viết cũ từ một tờ báo của Đảng lại không thể được in chung trong một tuyển tập! Lư Nhuệ phải thốt lên rằng: "Quốc gia nào thế này? Tôi muốn bật khóc: Báo chí phải được tự do! Bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận của nhân dân là hoàn toàn bất hợp pháp!"
Không chỉ đối với các lănh đạo cấp cao - ngay cả Thủ tướng của nước ta cũng không được hưởng tự do ngôn luận hay tự do báo chí! Ngày 21 Tháng Tám 2010, Thủ tướng Ôn Gia Bảo khi phát biểu tại Thẩm Quyến đă kêu gọi, "Không c̣n phương thức nào khác ngoài việc đẩy mạnh cải cách nếu chúng ta muốn thấy một tương lai tươi sáng cho Trung Quốc". Thủ Tướng Ôn Gia Bảo c̣n nói thêm, "Không chỉ đẩy mạnh cải cách kinh tế mà c̣n cả cải cách chính trị. V́ nếu không có những đảm bảo về cải cách chính trị th́ những thành quả kinh tế chúng ta đă gặt hái được sẽ tiêu tan và nhiên hậu mục tiêu về hiện đại hoá sẽ không thể trở thành hiện thực". Bản tin của Tân Hoa Xă đăng cùng ngày hôm đó có nhắc đến việc "xây dựng một tương lai tươi đẹp cho các đặc khu kinh tế," nhưng không hề đả động đến nội dung các lời phát biểu của Ôn Gia Bảo về các cải cách chính trị!
Vào ngày 22 tháng 9 năm 2010, giờ Washington, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đă có một cuộc họp báo với giới truyền thông Mỹ từ New York cùng với giới truyền thông Trung Quốc từ Hồng Kông và Macao, và một lần nữa, ông nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc "cải cách cơ cấu chính trị". Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố rằng: "Như tôi đă nói trước đây về cải cách chính trị, nếu cải cách kinh tế mà không được đảm bảo bởi cải cách chính trị th́ không thể coi như thành công mọi mặt, và thậm chí thành quả kinh tế chúng ta đă gặt hái được sẽ tiêu tan". Ngay sau đó, trong bài diễn văn với tựa đề là "Công Nhận Vai Tṛ Đích Thực của Trung Quốc" tại kỳ họp lần thứ 65 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo một lần nữa lại nhắc đến cải cách về chính trị. Vào ngày 23 tháng 9, 2010, giờ Bắc Kinh, những sự kiện này đă được nhắc đến trong mục “Thời Sự Đó Đây” trên Đài Truyền H́nh Trung Ương Trung Quốc cũng như trong một thông cáo báo chí chính thức của Tân Hoa Xă. Tuy nhiên cả hai nguồn tin trên chỉ thông báo các nhận xét của Ôn Gia Bảo về những khó khăn mà người Trung Quốc ở hải ngoại đang phải đương đầu và tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đối với người Trung Quốc ở nước ngoài mà không hề mảy may đề cập đến các lời phát biểu về cải cách chính trị.
Đối với những chuyện bưng bít thông tin như thế này, dù cố gắng đến mấy đi nữa chúng ta cũng không thể quy kết trách nhiệm cho một cá nhân nào đó mà là một bàn tay vô h́nh màu đen. V́ lư lẽ riêng, những kẻ đứng sau bàn tay vô h́nh này đă vi phạm hiến pháp của chúng ta bằng cách thông báo qua điện thoại rằng công việc của “người đó” và “việc đó” không thể được công bố, hoặc “sự kiện như thế” không thể được thông báo trên các phương tiện truyền thông. Mặc dù các nhân viên an ninh thực hiện cuộc gọi không để lại tên, và danh tánh của họ luôn được bảo mật, nhưng người bị gọi phải tuân thủ các điều lệnh của người gọi đến trong cuộc điện đàm. Những bàn tay đen vô h́nh chính là Cục Tuyên Truyền Trung Ương của chúng ta. Ngay lúc này, Cục Tuyên Truyền Trung Ương được đặt trên Uỷ Ban Trung Ương Đảng Cộng sản, và trên Hội Đồng Nhà Nước. Chúng ta tự hỏi rằng Cục Tuyên Truyền Trung Ương đă lấy quyền ǵ để bịt miệng bài phát biểu của Thủ Tướng? Cục Tuyên Truyền Trung Ương lấy quyền ǵ để cướp đoạt từ tay chúng ta, những người dân, về quyền được biết những ǵ mà Thủ Tướng đă phát biểu?
Đ̣i hỏi trên hết của chúng tôi là hệ thống kiểm duyệt hiện nay phải được gỡ bỏ theo đúng quyền hạn được phân định trên cơ sở luật pháp.
Các quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí theo Điều 35 của Hiến pháp của chúng ta đă trở thành những món đồ trang trí trên tường v́ đi ngược lại các quy định cụ thể như là "Quy Định Về Xuất Bản”. Những luật và quy định này thực ra là một cơ cấu để kiểm duyệt và cấp phép xuất bản. Có vô số các lệnh và điều cấm kỵ nhằm hạn chế tự do ngôn luận và tự do báo chí. Việc tạo ra một đạo luật báo chí và băi bỏ các hệ thống kiểm duyệt đă và đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách trước mắt chúng ta.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội Trung Quốc lập tức thông qua việc soạn thảo một Bộ Luật Báo Chí và các "Quy Định Về Xuất Bản" hiện hành cùng tất cả các hạn chế của địa phương về thông tin và xuất bản phải được băi bỏ. Xét trên b́nh diện nhà nước, việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí theo đúng Hiến pháp có nghĩa là tạo sự độc lập giữa một bên là truyền thông và một bên là Đảng và chính phủ hiện đang nắm vai tṛ kiểm soát để qua đó biến cái "loa phát thanh của Đảng" thành "công cụ của nhân dân". Bộ Luật Báo Chí cần được soạn thảo dựa trên nền tảng pháp lư công bằng và có trách nhiệm. Không thể theo khẩu hiệu cũ lấy lư do tăng cường hệ thống kiểm duyệt nhằm "nâng cao vai tṛ lănh đạo của Đảng". Hệ thống được gọi là kiểm duyệt hiện nay có nghĩa là trước khi xuất bản phải được các ban ngành của Đảng chấp thuận, và nếu không được chấp thuận th́ bị coi là bất hợp pháp. Hệ thống xuất bản được gọi là có trách nhiệm pháp lư có nghĩa là các ấn phẩm được xuất bản không cần phải có sự chấp thuận của các cơ quan Đảng và chính quyền, mà có thể được xuất bản ngay sau khi chủ nhiệm xét thấy phù hợp. Nếu có kết quả bất lợi hoặc tranh chấp sau khi xuất bản, chính phủ sẽ có thể cần can thiệp và xử lư theo pháp luật nếu xét thấy phạm pháp. Ở các nước trên thế giới, việc hoàn thiện luật pháp về truyền thông và xuất bản đă đi theo con đường này để dần dần thay đổi từ hệ thống kiểm duyệt sang hệ thống trách nhiệm pháp lư. Không ai nghi ngờ rằng hệ thống pháp lư đánh dấu sự tiến bộ đối với vai tṛ và trách nhiệm của hệ thống kiểm duyệt, và điều này đồng thời cũng có tác động rất lớn đối với lợi ích của sự phát triển về nhân văn và khoa học tự nhiên cũng như trong việc thúc đẩy sự ḥa hợp xă hội và tiến bộ lịch sử. Nước Anh đă bỏ các h́nh thức kiểm duyệt từ năm 1695. Nước Pháp đă băi bỏ hệ thống kiểm duyệt vào năm 1881. Nếu muốn xuất bản nhật báo và các báo định kỳ sau này tại Pháp th́ chỉ cần điền vào tờ khai báo rất đơn giản, rồi các đại diện của toà báo kư tên và gửi đến văn pḥng biện lư cuộc của chính phủ. Hệ thống kiểm duyệt tin tức và xuất bản sách báo hiện tại ở Trung Quốc chậm lụt hơn nước Anh 315 năm và nước Pháp 129 năm.
V́ những lư do trên chúng tôi, những người đồng kư tên trong Bức Thư Ngỏ này, có các yêu cầu cụ thể như sau:
1. Băi bỏ việc tài trợ các cơ quan truyền thông trực thuộc chính phủ (đây là các tổ chức do Đảng kiểm soát và được dùng để khống chế giới truyền thông), cho phép các nhà xuất bản được tổ chức và hoạt động độc lập; thực thi hệ thống trong đó các giám đốc và Tổng Biên Tập chịu trách nhiệm đối với các đơn vị xuất bản dưới quyền.
2. Tôn trọng các nhà báo, củng cố ḷng tin và ư chí độc lập của họ. Nhà báo phải là "vị vua không ngai." Việc báo cáo các sai phạm hàng loạt và đưa ra ánh sáng các vụ tham nhũng là nhiệm vụ cao quư của các nhà báo với tư cách là người đại diện cho nhân dân, do đó trọng trách của họ cần được bảo vệ và hỗ trợ. Lập tức chấm dứt các động thái vi hiến của các lănh đạo địa phương và công an trong việc bắt bớ các nhà báo. Xem xét kỹ trường hợp bắt giữ nhà văn Tạ Triều B́nh. Lương Phụng Dân, Bí Thư Đảng Ủy thành phố Vị Nam [dính líu đến việc bắt giữ Tạ Triều B́nh] phải chịu kỷ luật đảng như là một h́nh thức cảnh cáo cho những ai đang cố t́nh vi phạm.
3. Băi bỏ các hạn chế đối với việc thăm ḍ dư luận trên phạm vi liên miền của các nhà báo, bảo đảm các nhà báo được thực hiện các phóng sự và báo cáo một cách tự do trên cả nước.
4. Internet là cầu nối thông tin quan trọng cho xă hội và là nơi các quan điểm của công dân được công khai bày tỏ. Ngoại trừ những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia hoặc đời tư của các công dân được pháp luật bảo vệ, cơ quan quản lư Internet không được toàn quyền xóa bỏ các bài viết và ư kiến phản hồi trên mạng. Phải dẹp bỏ công an văn hóa mạng cùng các kỹ thuật tường lửa và cấm đoán vượt tường lửa trên Internet.
5. Không có chuyện cấm kỵ và nhạy cảm liên quân đến lịch sử Đảng. Công dân Trung Quốc có quyền được biết các việc làm sai trái của đảng cầm quyền.
6. "Tuần báo Miền Nam" và tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu nên được phép tái cơ cấu như là một thí điểm của hoạt động tư nhân trong lĩnh vực truyền thông độc lập. Việc tư nhân hóa các tờ báo và tạp chí là hướng đi tự nhiên của cải cách chính trị. Lịch sử đă dạy chúng ta: khi giới cai trị và các nhà hoạch định chính sách thông đồng với nhau, khi chính phủ và các phương tiện truyền thông cùng núp bóng "Đảng," và khi Đảng tự đề cao ḿnh, th́ người dân chẳng c̣n được quan tâm theo đúng tôn chỉ của những nhà lănh đạo chân chính. Từ thời gian của cuộc Cách Mạng Đại Nhảy Vọt đến cuộc Cách mạng Văn hóa, các báo, các tạp chí, các đài truyền h́nh và đài phát thanh ở Trung Hoa đại lục đă chẳng bao giờ phản ánh được ư muốn thực sự của người dân. Đảng và các nhà lănh đạo chính phủ đă trở nên vô cảm với những phản biện và tiếng nói bất đồng, cũng v́ lẽ đó mà họ đă gặp khó khăn trong việc nhận ra và sửa sai những lỗi lầm tầy đ́nh như thế. Một đảng cầm quyền và chính phủ mà lại đi ḅn rút tiền thuế của dân vào các phương tiện truyền thông để ca tụng chính họ là một điều hoàn toàn không thể cho phép trong các nước dân chủ.
7. Cho phép lưu hành không hạn chế tại đại lục các sách báo và tạp chí xuất bản tại Hồng Kông và Macao, các lănh thổ nay đă thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Đất nước chúng ta đă gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và kinh tế của chúng ta đă hội nhập với kinh tế thế giới — cố gắng đóng cửa với thế giới bên ngoài là đi ngược lại lộ tŕnh đă được hoạch định để cải cách và hội nhập. Hồng Kông và Ma Cao đă tạo điều kiện cho chúng ta nâng cao văn hóa ngay tại cửa ngơ của đất nước. Những sách báo và tạp chí xuất bản ở Hồng Kông và Macao luôn được dân chúng hân hoan chào đón và tin cậy.
8. Chuyển đổi chức năng của các cơ quan tuyên truyền: từ vị trí kiểm soát và áp đặt các điều "cấm kỵ" để chúng trở thành các cơ quan bảo vệ tính chính xác, tính kịp thời, và không bị cản trở của thông tin; từ những cơ quan tuyên truyền trước đây chuyên t́m cách bao che cho các quan chức tham nhũng để chúng trở thành các cơ quan truyền thông độc lập trong việc theo dơi việc làm của các cơ quan Đảng và Nhà nước; từ những cơ quan tuyên truyền trước đây chuyên lo việc kiểm soát chặt chẽ các ấn phẩm, sa thải các chủ nhiệm và bắt giữ các nhà báo để chúng trở thành cơ quan chống lại việc lạm dụng quyền lực và bảo vệ các cơ quan truyền thông và nhà báo chân chính. Các cơ quan tuyên truyền của chúng ta đă bị tai tiếng kinh khủng trong nội bộ Đảng cũng như trong xă hội. Do đó họ phải thành tâm và làm việc hết sức ḿnh để lấy lại danh tiếng của họ. Vào một thời điểm thích hợp nào đó, chúng ta nên xem xét để đổi tên các cơ quan tuyên truyền này sao cho phù hợp với xu hướng toàn cầu.
Chúng tôi đồng quyết tâm, nhất trí bày tỏ nguyện vọng và mong mỏi sự lưu tâm khẩn cấp của quư vị.
Ngày 11 Tháng 10, 2010
Đồng Kư Tên (23 người):
1. Lư Nhuệ - Cựu Thứ trưởng thường trực của Vụ Tổ chức Uỷ ban Trung Ương ĐCSTQ, thành viên Uỷ Ban Trung ương ĐCSTQ lần thứ 12.
2. Hồ Tích Vĩ - cựu chủ nhiệm Nhân Dân Nhật Báo, thành viên Ủy ban thường trực Quốc hội lần thứ 7 của nhân dân Đại hội, Giám đốc Truyền thông Liên bang của Trung Quốc viện.
3. Giang B́nh - nguyên Viện Trưởng Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc, giáo sư chính thức, thường trực Ủy ban Quốc gia lần thứ 7 của Nhân Dân Đại hội, Phó giám đốc của Ban Chấp hành Luật Pháp của Quốc Hội Trung Quốc
4. Lư Phổ - nguyên Phó giám đốc Tân Hoa Xă
5. Chu Thiệu Minh - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính trị của quân khu điều hành Quảng Châu
6. Chung Bái Chương - Cựu Chánh Văn pḥng Tin tức của Cục Tuyên Truyền Trung ương
7. Vương Vĩnh Thành - Giáo sư Đại học Giao thông Thượng Hải
8. Trương Trung Bồi - Nghiên cứu viên Bảo tàng Cung điện Hoàng gia, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Trung Quốc
9. Đỗ Quang - cựu giáo sư tại Trường Đảng Trung ương
10. Quách Đạo Huy - cựu biên tập chính của Trung Quốc Khoa Học Pháp Lư
11. Tiêu Mặc - cựu lănh đạo của Trung tâm Nghiên cứu Kiến trúc Quốc gia Học viện Nghệ thuật Trung Quốc
12. Trang Phổ Minh - nguyên Phó Giám đốc Nhân Dân Báo
13. Hồ Phủ Thần - cựu giám đốc và chủ nhiệm Nhà xuất bản Lao Động Trung Quốc
14. Trương Định - cựu giám đốc khoa Trung Quốc Xă hội Khoa học tại Học viện Khoa học Xă hội Trung Quốc
15. Vu Hữu - cựu biên tập chính của Trung Quốc Nhật Báo
16. Âu Dương Ḱnh - cựu biên tập chính của tạp chí Hồng Kông Thái B́nh Dương
17. Vu Hạo Thành - cựu giám đốc Nhà xuất bản Quần Chúng
18. Trương Thanh - cựu giám đốc Trung Tâm Điện Ảnh Trung Quốc
19. Du Nguyệt Đ́nh - cựu giám đốc Đài Truyền H́nh Phúc Kiến, phóng viên chiến trường.
20. Sa Diệp Tân - cựu giám đốc trường Nghệ Thuật Nhân Dân và Học Viện Sân Khấu Thượng Hải, hiện là một nhà văn độc lập của các dân tộc thiểu số theo đạo Hồi.
21. Tôn Húc Bồi - cựu giám đốc của Viện Nghiên cứu Tin tức tại Học viện Khoa học Xă hội Trung Quốc.
22. Tân Tư Lăng - cựu giám đốc của Ban Biên Tập Đại học Quốc pḥng Trung Quốc.
23. Thiết Lưu - biên tập viên chính của tạp chí Vết Thương Quá Khứ
Tư vấn pháp lư: Tống Nhạc - công dân Trung Quốc, đang hành nghề luật sư ở tiểu bang New York, Hoa Kỳ.
© Bản dịch của Viet-studies
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
rongchoi123
member
REF: 571762
10/17/2010
|
C̣n đây cũng là bài viết của một cán bộ hưu trí VN về ông Vơ Văn Kiệt. Ông này về hưu rồi mới nói.
Ông Vơ Văn Kiệt và tôi
Tôi gặp ông lần đầu tiên sau ngày 30-4-1975 vào thời kỳ thành phố Hồ Chí Minh c̣n trong t́nh trạng quân quản, trong một cuộc họp của Thành uỷ do ông chủ tŕ bàn về vấn đề “bài trừ văn hoá phản động đồi truỵ”. Nói cho thật đúng lúc bấy giờ tôi chỉ thấy ông chứ không gặp v́ thật sự tôi chưa hề biết mặt ông. Tôi được Bộ Thông tin Văn hoá miền Nam (lúc ấy chưa bị giải thể) chỉ định đi họp, vào họp tôi thấy ông đang say sưa nói ở trên bàn chủ toạ, một lúc sau tôi đưa tay xin phát biểu, và gọi ông bằng “đồng chí” trống không, tưởng như nói với một cán bộ vô danh nào đó rồi cứ thế mà thao thao. Tôi đoán có lẽ ông cũng không biết tôi là ai, nhưng nghe cái giọng tranh căi có phần hung hăng của tôi nên đă nghểnh tai, chăm chú tỏ
vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi quyết liệt phản bác hẳn ư kiến của Trần Trọng Tân bấy giờ đang phụ trách Ban Tuyên huấn Thành uỷ. Đáng lẽ tôi im lặng v́ không tin tưởng lắm vào những cuộc họp như thế này, nhưng do đụng tới một chuyện bức xúc đă suy nghĩ từ lâu, tôi đă nói lại một ư mà tôi đă phát biểu trong một cuộc họp liên tịch giữa Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà b́nh Việt Nam ở ngoài Bắc khi thảo luận về “Chương tŕnh hành động 10 điểm của CPCMLTCHMNVN”, rằng nếu chúng ta không đặt giới hạn cho chính xác mấy khái niệm “phản động và đồi truỵ” mà căn cứ vào đó làm tiêu chuẩn hành động th́ sẽ vô cùng nguy hiểm, Kinh thánh sẽ bị tịch thu cùng với tranh của Picasso,
thơ của Beaudelaire, tiểu thuyết của Remarque… c̣n mọi thứ sách nghiên cứu về khoa học nhân văn, khoa học xă hội sẽ bị liệt vào hạng “tư sản thối nát” cần tiêu huỷ hết…
Ở một bài viết khác[1] tôi có nói qua điều này: tưởng như khi ở miền Bắc, những phát biểu ấy sẽ bị gạt đi nhưng không ngờ sau đó tôi đă nhận được quyết định do Lưu Hữu Phước kư, phân công tôi “chỉ đạo” h́nh thành bộ phận “đọc và phân loại sách xuất bản ở miền Nam trước 30-4-1975”. Có một điều thú vị là cho đến khi công việc nói trên đă gần hoàn thành, khi xem vô tuyến truyền h́nh tôi mới biết cái người cán bộ nghễnh tai nghe tôi nói hôm đó chính là Vơ Văn Kiệt: ông đang diễn thuyết trước hàng hàng lớp lớp những thanh niên xung phong ở vườn Tao Đàn! Hoá ra ông đă trở về công tác tại Sài G̣n (bí thư Đảng uỷ đặc biệt trong Uỷ ban quân quản thành phố) trong thời gian tôi đi trị bệnh ở miền Bắc mà tôi không biết. Trước
đây tôi có nghe ông từng làm bí thư của khu Sài G̣n Gia định, sau đổi về Khu 9, và cứ tưởng rằng người thay Trần Bạch Đằng vào năm 1970, nếu không phải là Nguyễn Văn Linh th́ cũng là Mai Chí Thọ chứ không thể là người khác. Và khi được biết chính ông là người đă nghe tôi phát biểu về việc phân loại sách hôm đó, một câu hỏi bỗng loáng thoáng nẩy sinh mà cho đến bây giờ tôi vẫn chưa có lời giải đáp: trong cái hôm ông nghe tôi tŕnh bày đề nghị mà tôi biết chỉ có một ḿnh tôi phát biểu, và sau ngày giải phóng chỉ phát biểu trong cuộc hội nghị mà ông chủ tŕ hôm ấy, ông có góp phần ǵ hay không khi gác qua ư kiến của những người như Trần Trọng Tân để chấp nhận việc thành lập bộ phận đọc sách mà tôi biết chắc chắn Lưu Hữu Phước
không thể có vai tṛ ǵ gọi được là quan trọng cả?
Dù sao th́ trong chuyện này, về mặt cá nhân, tôi vẫn coi là đă góp được một chút thắng lợi cho công việc chung, ít nhất th́ cũng tránh được một cách có ư thức sự tràn lan bừa băi trong chỉ đạo về đường lối. Nhưng tất cả công việc cũng chỉ như vậy thôi, ngoài ra không có ǵ khác nữa. Trong lúc Thanh Nghị đuợc đưa về làm giám đốc Thư viện quốc gia th́ tôi lại được cho ngồi nhà chờ đợi; trong thời gian này ngoài việc tập trung hoàn thành cuốn Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam, thỉnh thoảng tôi cũng xuất hiện trên báo Sài G̣n giải phóng, Tin sáng … với những bài ngắn viết về văn nghệ văn hoá, nhuận bút chỉ đủ uống cà phê vài bữa. Công việc viết lách này tưởng cho vui thôi nhưng không ngờ
đă dẫn tôi đến một tai hoạ không lường được. Bực ḿnh v́ những chuyện cải tạo gọi là “xă hội chủ nghĩa”, không biết do học một chỉ thị nào đó về chủ đề chống lại sự sa sút về phẩm chất của đảng viên, tôi đă nổi hứng lên viết ra hai bài đăng trên Tin sáng vào tháng 6/1979 (“Sức mạnh của đất” và “Bản chất của Đảng”) và chính v́ hai bài viết này, tôi bị Thuờng vụ Thành uỷ lôi tên ra trong những cuộc học tập mùa hè năm đó với cái tội mà trong chế độ mới này ai nghe qua cũng thấy rợn người: một loại “Nhân văn-Giai phẩm, chống Đảng tinh vi”! Điều đặc biệt nhất của chiến dịch kết tội này là tôi không hề được biết, không ai cho tôi biết mặc dù là trong Thành uỷ bấy giờ có những người biết tôi rất rơ từ
trong chiến khu: Mai Chí Thọ đă giăng vơng nghỉ trưa ở cái cḥi của tôi tại rừng Tà Leeng sau hiệp định Paris, gần sông Thị Tín suốt một tuần lễ khi ông đến giảng bài ở trường Đảng gần đó, c̣n Trần Trọng Tân th́ là người đă đại diện Thành uỷ dự lễ kết nạp tôi vào 1968 . Không ai nói với một tiếng nào, cũng không cần hỏi chủ đích của tôi là ǵ, kể cả thông báo với chi bộ nơi tôi sinh hoạt, và cứ như thế mà sự kết án công khai, ồn ào từ Sài g̣n lan về các tỉnh.
Tất cả những kết án đó chỉ đến tai tôi một cách gián tiếp, qua lời thuật của bạn bè, nhất là qua những giáo viên dự các lớp chính trị có quen biết với gia đ́nh tôi. Tôi đă tổng hợp tất cả những lời kết án ấy lại, làm một tường tŕnh, nhờ Lê Duy Hạnh cùng sinh hoạt một chi bộ, qua một đường quen biết riêng, gửi cho Vơ Văn Kiệt như một thư khiếu nại. Kết quả thật ngoạn mục: một thời gian sau không lâu, Trần Trọng Tân đă t́m đến nhà tôi, cho biết chính “anh Sáu” đă đưa thư cho ông đọc và đề nghị ông đến gặp tôi để giải quyết. Một cách xuề xoà, Trần Trọng Tân cho rằng đọc thư tôi ông thấy không có ǵ trầm trọng lắm, chỉ do tôi “cầm đèn chạy trước ô-tô thôi”, những ǵ Đảng chưa nói th́ người cầm bút không nên
nói trước, gây ra những xôn xao không cần thiết. Trần Trọng Tân an ủi: không sao đâu, cần rút kinh nghiệm là được. Tôi thật không thể nào hiểu nổi cái cách xử lư vấn đề lạ lùng và đơn giản đến như vậy: không cần biết sự thật ra sao, không cần gặp gỡ t́m hiểu về mặt động lực của con người mà chỉ căn cứ vào một số h́nh thức biểu hiện để suy ra rồi quy chụp, bất chấp sinh mạng chính trị của đồng chí ḿnh, sau đó nghe phân bua th́ lại nói là không có ǵ, không sao cả. Bất nhẫn trước những lời giải thích ấy, tôi đă trả lời Trần Trọng Tân rằng tôi không thể nào tiếp tục được một cuộc chơi ở đó người cầm bút được xem là một thứ cần vụ của chính trị thô thiển đến như vậy. Những ǵ ông tiếp tục giải thích an ủi
càng làm cho tôi thấy công việc viết lách mà ḿnh coi là một thứ lư tưởng đă trở thành hết sức vô nghĩa, hết sức tầm thường. Sau buổi gặp mặt ấy, tôi tự nói với ḿnh rằng khi hoàn tất cuốn sách đă kư với nhà xuất bản Văn hóa, tôi sẽ đem bán tất cả sách vở, gác bút đi làm một chuyện ǵ khác đỡ bạc bẽo hơn.
Tưởng mọi việc đă xong xuôi nhưng một thời gian sau không lâu, tôi thật bất ngờ khi thấy Rum Bảo Việt (bí danh Sáu Chiến, bấy giờ phụ trách Đảng uỷ Văn nghệ thành phố và cũng là một người đă chủ tŕ cuộc kết nạp tôi ở vùng giải phóng vào năm 1968) một hôm ghé nhà tôi cho biết ông Kiệt mời tôi đến dự buổi gặp mặt do ông chiêu đăi tại nhà hàng Rex nhân dịp ông chuyển sang phụ trách văn nghệ, (trước đó tôi nghe dường như để đối phó với một t́nh h́nh có phần lộn xộn do mấy thứ gọi là “văn nghệ đồi truỵ” đang muốn ngóc đầu trở lại). Tuy rất có ấn tượng khi ông phụ trách về kinh tế với chính sách tháo gỡ gọi là “ba lợi ích” nổi đ́nh nổi đám lúc bấy giờ, tôi tự hỏi trong lĩnh vực văn nghệ cực kỳ phức tạp này, ông
biết ǵ mà dám nhẩy vào để gọi là lănh đạo. Nghĩ thế nhưng trước một sự mời mọc quá trân trọng, thông qua một người thân quen là Sáu Chiến, tôi vẫn nhận lời. Nhà hàng Rex hôm đó đông nghẹt đủ các thành phần văn nghệ sĩ trí thức ở Sài g̣n thuộc đủ các ngành, ồn ào chẳng có vẻ ǵ là một cuộc họp như thường gặp. Khi mọi người đă ngồi vào chỗ rồi, tôi thấy ông Kiệt chỉ đứng lên nâng ly chúc mừng anh em mà không hề có một bài diễn văn nào, rồi sau đó cũng chẳng có một bài tham luận nào cả. Trong khi nhiều anh em bâu vào chỗ ông ríu rít thăm hỏi, nói chuyện th́ tôi chọn một bàn ở tận cuối pḥng với một số người quen, uống bia lai rai. Nhưng không ngờ trong cái không khí om x̣m nhậu nhẹt đó, từ dăy bàn hàng đầu, ông Kiệt xăm xăm
đến đúng chỗ tôi ngồi, coi như đă quen biết từ lâu, cụng ly rồi nói: “Lữ Phương! Bữa nào tới ḿnh nhậu chơi!”.
Hơi lấy làm lạ với cách ứng xử đó, nhất là khi biết rơ rằng tôi chỉ thấy ông một lần chứ chưa từng thực sự gặp ông để ông có thể nhớ mặt, nhưng tôi nghĩ có lẽ ông đă nhờ Rum Bảo Việt chỉ dẫn để ông đến gặp tôi hoặc là xă giao hoặc do ông đă đọc thư khiếu nại của tôi về vụ hai bài báo trên Tin sáng, nên cũng cố ư làm vậy để bày tỏ sự an ủi như Trần Trọng Tân đă làm. Nhưng lại một bất ngờ khác đă xảy ra: sau đó vài hôm, vào một buối tối, tôi thấy Sáu Chiến đem xe hơi tới nhà tôi nói ông Kiệt mời tôi tới chỗ ông chơi như tôi đă hứa. Xe đưa tôi tới chỗ mà ông hay tiếp khách vào lúc bấy giờ là Văn pḥng Thành uỷ ở đường Trương Định. Bước vào căn pḥng mà ông tiếp tôi, tôi có cảm giác đây là một buổi gặp gỡ
riêng tư, đặc biệt: quanh cái bàn bày biện sẵn các loại thức ăn, có cả rượu, bia, thuốc lá, quanh bàn chỉ có hai chiếc ghế để ông và tôi ngồi đối mặt với nhau. Ông không nói ǵ về mục đích của buổi gặp, chỉ niềm nở vui đùa, có ư nhường lời cho tôi, cho nên sau vài ly bia vào tôi bỗng thấy hứng lên và huyên thuyên đủ thứ chuyện, c̣n ông th́ lâu lâu chỉ chêm vào mấy câu mà tôi loáng thoáng c̣n nhớ khi đề cập qua về nghệ thuật, chẳng hạn như đi nghe nhạc giao hưởng hoặc xem múa ballet ông không hiểu ǵ mấy. Lúc bấy giờ tôi cũng đă biết qua nhân thân của ông nhưng lại không hề thắc mắc với câu hỏi đặt ra ban đầu về công việc phức tạp mà ông sắp đảm nhận, bởi v́ qua cuộc tiếp xúc ấy cái ấn tượng c̣n lại trong tôi không có ǵ
khác hơn là sự thoải mái được gần gũi với một người lănh đạo dễ thương, biết lắng nghe tôi nói, coi tôi là một người đối thoại không giống chút nào với cung cách của một vài người lănh đạo khác mà tôi đă từng tiếp xúc như Trần Bạch Đằng và Tố Hữu.
Về Trần Bạch Đằng tôi đă gặp nhiều lần hồi vào chiến khu từ Mậu Thân ở vùng ven. Vào năm 1970, trên đất Kampuchia, khi từ bộ Thông tin Văn hoá trên R xuống công tác ở Y4, tôi đă từng nghe ông hùng hồn thuyết minh về đường lối đấu tranh ở đô thị với luận điểm rất táo bạo, đi ngược lại sách vở giáo khoa về chủ nghĩa Mác-Lênin; ông nóí rằng ở miền Nam, giai cấp công nhân hơi bị “xệ d…” nên không thể đóng được vai tṛ tiền phong của cách mạng, vai tṛ ấy đă thuộc về sinh viên trí thức: sinh viên và trí thức lúc đó chẳng những là ng̣i pháo mà c̣n trở thành thân pháo nữa! Bấy giờ là lính mới, tôi rất thú vị với luận điểm ấy của ông và rất hào hứng khi gặp ông riêng nhiều lần nghe ông kể chuyện vui, đọc thơ, đọc cả một
chương nào đó của một cuốn tiểu thuyết mà ông đang viết. Khởi đầu tôi nghĩ ông là một nhà cách mạng “văn vơ song toàn”, nhưng gặp ông nhiều lần nữa tôi bắt đầu nhận ra cái cung cách “anh hai Nam bộ” nơi ông khá rơ: ông quá tự tin về ḿnh, về ư kiến của ḿnh và rất thích đem niềm tin ấy truyền cho người khác dưới một h́nh thức gần như áp đặt. Lần nào tiếp xúc với ông tôi cũng thấy ông nói liên tục và không hề biết tôi nghĩ ǵ về điều ông nói. Sau này, qua giải thích của nhiều cán bộ trên R tôi biết được ông đă bị Đảng xếp vào loại “thích nhảy cao đá dài”, nhưng thiếu hẳn “căn cơ” nên rất dễ bốc đồng và vấp ngă. Nghe thông tin ấy tôi đă hiểu tại sao khi đưa ra luận điểm nổi tiếng về sự “xệ d…” của giai
cấp công nhân, thật sự th́ không có ǵ sai về mặt thực tế, ông vẫn bị Nguyễn Văn Linh từ Trung ương Cục xuống Y4 lôi về R để kiểm điểm và ngưng công tác một thời gian khá lâu.
Sau ngày 30-4-1975, tôi rất ít khi gặp ông. Nhưng thấy ông viết nhiều trên Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Thanh niên… vẫn với giọng điệu của một đại ca, được một số đệ tử thần phục gọi là “học giả” rất long trọng. Tôi cũng được tin sau một chuyến đi công tác ở Ba Lan về, ông bị phê b́nh, bị công an theo dơi, phải đưa ra Bắc học trường Nguyễn Ái Quốc … Cũng nghe sau một thời gian làm phó ban Tuyên huấn Trung ương th́ ông về hưu tập trung vào công tác văn hoá, văn nghệ với tư cách cá nhân: ngoài việc viết báo, viết truyện, ông cũng đứng ra nhận lănh hàng loạt những công tŕnh làm ăn gọi là “điạ dư chí” cho một số tỉnh, thành, mời một số cây bút hợp tác, căn cứ vào những bài viết có sẵn ông đưa ra những nhận định tổng hợp. Lúc bấy giờ
quan điểm của tôi về chế độ mới đă bắt đầu hơi “lộn xộn” rồi, đọc những bài ông viết tôi không c̣n thấy hào hứng như thời c̣n kháng chiến nữa, nên không hề có ư định gặp ông. Nhưng dường như ông không biết điều đó, nghĩ rằng tôi vẫn là một thứ “đệ tử” để ông phân công, nên có một lần ông đă gửi một cô thư kư đến nhà tôi đưa cho tôi một đề cương nghiên cứu về lịch sử cách mạng mà ông đă nhận làm cho tỉnh Sông Bé, trong đó gồm đầy đủ các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá…có ghi tên một số người đảm nhận, riêng phần tôi th́ trong bức thư riêng, ông đề nghị tôi phụ trách nghiên cứu phần… quân sự! Đọc xong bức thư “phân công” ấy tôi cười ngất và bảo cô thư kư về nhắn với ông là tôi … chịu thua
hoàn toàn!
Về ông Tố Hữu th́ tôi chưa bao giờ gặp riêng. Nhưng sau 30-4-1975 một thời gian, tôi có dịp đi nghe ông diễn thuyết một lần ở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Được nghe một vị lănh đạo cao cấp từ Trung ương vào nói chuyện, anh em đến dự khá đông. V́ hội trường đă đầy nghẹt, tôi chọn một chỗ sát cửa ra vào, cho thoáng mà cũng đề pḥng trường hợp chán quá th́ … rút lui sớm! Ngồi kế tôi là một đạo diễn điện ảnh của Sài g̣n cũ, tóc và râu rất dài. Khi Tố Hữu từ ngoài bước vào, có Bảo Định Giang nối đuôi, ông dừng lại trước nhà đạo diễn này và sau một câu hỏi thăm về nghề nghiệp, ông phát ra ngay mấy câu lên lớp làm tôi ngượng đến chín người, đại khái: sao lại để râu tóc chi cho dài coi già và buồn
quá vậy…? rồi tay cầm cái quạt, thong thả lên bàn chủ toạ… Lập tức Bảo Định Giang khúm núm bước theo: “Xin giới thiệu với các đồng chí người Anh Cả trong làng văn nghệ của chúng ta mà mọi người đều biết: đồng chí Tố Hữu! Mặc dầu bận trăm công ngh́n việc, hôm nay đồng chí Tố Hữu cũng đến đây nói chuyện với chúng ta về một số vần đề văn nghệ…..v.v…”. Sau khi Bảo Định Giang vừa dứt lời th́ bị Tố Hữu chỉnh ngay: “Anh Bảo Định Giang nói sai rồi! Làm chi mà trăm công ngh́n việc, người cộng sản lúc nào cũng thong dong, thoải mái… Và có ǵ mà “Anh Cả” với “Anh Hai”, tôi cũng chỉ là một người làm thơ như các anh em làm văn nghệ thôi…”. Ngừng một lúc rồi ngó quanh, ông chỉ cây quạt vào một khẩu hiệu bên vách pḥng họp:
“Tất cả cho sản xuất”, cũng sai rồi, trong văn nghệ tại sao không nói “tất cả cho sáng tạo”… mà lại nói “tất cả cho sản xuất”?
Phải nói rằng cái cách mở đầu câu chuyện như vậy cực kỳ gây ấn tượng với tôi, và đột nhiên tôi hơi lo cho Bảo Định Giang: nói năng thế nào mà bị “chỉnh” trước mặt mọi người như vậy th́ kể như tiêu rồi. Lại c̣n ông Viễn Phương, nhà thơ mà tôi biết từ trong khu, nay là chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật thành phố lúc ấy nữa: viết khẩu hiệu tuyên truyền làm sao mà để bị “đ́” như vậy! Với những niềm hứng thú đó, quên vụ ông đạo diễn lúc nẫy, tôi lắng nghe Tố Hữu nói đủ thứ về văn nghệ, thế nào là xă hội chủ nghĩa, thế nào là dân tộc , hiện đại… nhưng một chặp th́ thấy những điều ông nói chẳng có ǵ là mới, đă do người khác hoặc do chính ông đă viết ra cả rồi nay chỉ lặp lại thôi. Duy có một h́nh
ảnh mà tôi nhớ măi khi ông dùng để nói về tính dân tộc trong văn nghệ, đại ư: tại sao chúng ta cứ xem cái mũi dài phương Tây là chuẩn mực của cái đẹp thể h́nh mà lại không phải là mũi tṛn của ta? …. Tinh thần dân tộc được đưa lên cao tột độ sau khi thắng Mỹ để trở thành môt thứ chủ nghĩa dân tộc vẫn là đề tài chính yếu của Tố Hữu và Lê Duẩn.
Sau buổi họp đó, anh em chúng tôi tạt sang cái quán bia khá rộng nằm ngay trong khuôn viên của Hội và đề tài của cuộc “toạ đàm” tiếp theo lại là cuộc thuyết tŕnh của Tố Hữu lúc nẫy. V́ quá ấn tượng với cuộc mở đầu của buổi họp, tôi bày tỏ ngay sự lo lắng của ḿnh về việc Bảo Định Giang bị “đ́” th́ lập tức một anh bạn cùng bàn ngắt lời: “Ông chẳng biết ǵ cả. Tôi nói ông biết Bảo Định Giang chỉ là cái mơ, c̣n người cầm đũa để gơ là Tố Hữu! Đưa đầu cho Tố Hữu gơ đó là cách lấy điểm đấy ông à! Tố Hữu rất cần có những cái đầu cho ông nện để tỏ uy quyền lănh đạo… Trong tất cả những đệ tử của Tố Hữu, Bảo Định Giang là người trung thành triệt để đấy! Ông không biết chuyện Bảo Định Giang đă nổi
danh với câu tuyên bố hồi đánh Nhân Văn-Giai Phẩm ở miền Bắc sau đây sao: Tôi chỉ là con chó gác cổng cho Đảng, thấy cái ǵ lạ th́ tôi sủa lên để Đảng t́m cách xử lư!”? Anh bạn này vừa nói xong th́ một anh khác đọc luôn hai câu vịnh về Bảo Định Giang, không biết ai là tác giả, cho đến nay tôi c̣n nhớ măi: “Thấy ‘trên’ lóm thóm lưng tôm bạc / Thấy ‘gái’ ngo ngoe đít cá vàng”. Thực hư như thế nào không biết nhưng nghe xong mấy lời lẽ có vẻ tiếu lâm ấy, tôi đă phải cố kềm để ngụm bia vừa uống khỏi vọt ra ngoài v́ sặc!
Khi nhớ lại những nhân vật trên đây rồi so với việc Vơ Văn Kiệt nhẩy sang lănh đạo trí thức và văn nghệ sĩ tôi thấy ông “không giống ai” hết! Ông không phải là một văn nghệ sĩ, lại không biết ǵ nhiều về lư luận văn nghệ, nhất là thứ lư luận văn nghệ mácxít-lêninít vốn được xem là chính thống của chế độ đă có từ thời chống Pháp đến nay. Nhiều lần tiếp xúc với ông, tôi thấy ít khi nào ông đi sâu vào những đề tài văn nghệ, nhất là không bao giờ ông đụng chạm đến vấn đề lư luận mà hễ có dịp nào tôi nhắc đến ông đều im lặng lắng nghe, không hỏi tiếp cũng không bắt chuyện. Tôi nghĩ không phải ông không quan tâm đến các vấn đề này mà có lẽ ông biết rất rơ rằng ông không có đủ tŕnh độ để đề cập, có thể gây ra
tranh luận không cần thiết nhưng cũng có thể ông nghĩ rằng đó là lĩnh vực chuyên ngành của những bộ môn khác nhau, để những vấn đề đó cho những nhà chuyên môn giải quyết, phần ông, ông chỉ đến với văn nghệ sĩ, trí thức như những người bạn, thông cảm với họ trong công việc, quan trọng nhất là tạo ra một t́nh cảm, một ḷng tin của họ với ông với tư cách là một người lănh đạo Đảng, để họ cùng đi chung với ông trong một mục tiêu chính trị nào đó. Khi tiếp xúc những người tiêu biểu có uy tín ông đă tiếp đăi họ riêng rẽ từng người một chính là để biểu thị sự quư mến và trân trọng của ông với cá nhân của họ. Tuy vậy khi cần thiết phải bộc lộ t́nh cảm ấy ông cũng biết sử dụng cái khả năng nhà nước mà ông có được
để chăm lo thiết thực một số đối tượng (tiêu biểu như việc ông gửi tiền cho Sơn Nam sửa nhà, gửi gạo cho Trịnh Công Sơn… ); cùng với những hành vi ấy là việc ông nhờ người đem từ miền Tây về các thứ rắn rùa để đăi đằng anh em, tất cả đều có mục đích biểu thị một quan tâm chân thành với mọi người, không phải chỉ với những anh em từ chiến khu trở về, ở miền Bắc vào mà cả với những nghệ sĩ trí thức của chế độ cũ đang ở lại cộng tác với chế độ mới nữa.
Do xuất thân từ phong trào đô thị, tôi nhận thấy cái cách thức vận động trí thức văn nghệ sĩ nói trên rất giống với cái cách dân vận của thời cách mạng chưa có chính quyền. Có thể nói đó một thứ phương pháp chinh phục trái tim từng con người một, qua sự chinh phục đó, lôi mọi người vào cuộc đấu tranh chung. Quyền lực của nhà nước mà ông có được trong tay sau khi cách mạng thành công có thể giúp công việc ấy dễ dàng hơn, nhưng không quan trọng lắm: ông không bao giờ bộc lộ quyền uy ấy với bất cứ người trí thức nào mà ông làm việc hay tiếp xúc, khác hẳn với cái cung cách lănh đạo quan cách dựa trên những chế độ, những tôn ti về định chế, h́nh thức, quan liêu h́nh thành ở miền Bắc sau 1954 tràn vào miền Nam sau ngày thống nhất, biểu
hiện rơ nhất nơi thái độ bề trên và mị dân của Tố Hữu mà tôi chứng kiến tận mắt. Gần gũi ông một thời gian, tôi có cảm giác như phong trào do ông vận động vẫn giữ được ít nhiều tính chất của một cộng đồng lư tưởng thời bí mật mà mỗi thành viên tham gia đều được bảo vệ và đùm bọc lúc khó khăn. Thái độ của ông đối với bà Ba Thi về chuyện “xé rào” thu mua gạo để cung cấp cho thành phố và không để thiệt cho nông dân (“tôi sẽ thăm nuôi nếu chị ở tù”) là một trường hợp, không khác ǵ trường hợp ông biết khoan dung với việc Nguyễn Trọng Văn thách thức ông về chuyện “ra đi hay ở lại” hoặc trường hợp ông thường can thiệp bảo lănh nhiều trí thức bị bắt v́ vượt biên trái phép…
Nghĩ lại trường hợp của ḿnh tôi cũng có cảm giác như ông đă đối xử với tôi như thế khi đọc xong bức thư khiếu nại tôi gửi ông về vụ hai bài báo trên Tin sáng, bằng cách đưa Trần Trọng Tân đến nhà tôi rồi sau này tự t́m đến tôi không phải chỉ như một vỗ về mà c̣n tiến tới chỗ kéo tôi vào cái cộng đồng mà ông đang xây dựng. Qua tiếp xúc một vài lần với ông, tôi đă nhận ra ngay mục đích ấy nhưng theo một thiên hướng t́nh cảm như tất cả những anh em khác, tôi đă tham gia vào đó một cách tự nhiên, không hề nghĩ rằng ông đă sử dụng ḿnh. Ông tỏ ra rất thích thú khi biết vào chính lúc ông khuyến dụ tôi tôi đă hoàn thành cuốn Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đang giao cho Nhà xuất bản
Văn hoá ở Hà Nội ấn hành ở nhà in Trần Phú, và đă qua một trợ lư nào đó đề nghị Hà Mậu Nhai lúc bấy giờ phụ trách Nhà xuất bản Văn nghệ Tp HCM in thêm 1000 cuốn nữa để phổ biến rộng răi hơn. Khi cuốn sách in xong tôi có gửi biếu ông một cuốn, không biết ông có th́ giờ đọc cuốn biên khảo nặng nề ấy hay không, nhưng sau đó ông xin tôi vài cuốn nữa để cho người khác, trong đó có một bản ông đề nghị tôi kư tên tặng ông Nguyễn Văn Trấn lúc bấy giờ hay gặp gỡ ông rất thân thiết. Ngay trong khi ông c̣n sống, tiếp xúc với rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ có dịp làm việc, quan hệ với ông, tôi thấy không ai là không giữ được nơi ông ít nhiều kỷ niệm về sự ân cần, chăm sóc thật ḷng của ông đối với họ.
Gần gũi ông, tôi có cảm giác như trở lại thời kỳ hoạt động bí mật ở đó ông là h́nh ảnh tiêu biểu của một cán bộ c̣n đang sống trong một hoàn cảnh được người dân che chở mà nếu không hiểu họ đang nghĩ ǵ, không biết họ sinh sống ra sao, bất măn điều ǵ và mong chờ điều ǵ th́ cuộc cách mạng mà người cán bộ có nhân danh như thế nào đi nữa cũng là vô nghĩa, tự cô lập và sớm muộn cũng sẽ tự diệt vong. Không phải những cán bộ khác không biết cái bài bản ruột đó nhưng ở ông tôi thấy đă biểu lộ một cách hồn nhiên như tính cách của ông, không hề tỏ ra cố gắng và đóng kịch. Tôi nhận ra thật rơ điều đó trong một lần gặp gỡ có nhiều anh em, nhân nhắc đến chuyện những trí thức vượt biên bị bắt, ông đă nổi hứng lên kể
chuyện Bác Hồ bỏ lăng ngh́n năm ở Hà Nội vào Nam đi t́m đường cứu nước một lần nữa mà v́ không có hai cây vàng bỏ túi nên đành ngồi củ rủ ở Bến Nhà rồng! Kể xong câu chuyện ấy ông cười hể hả. Nhưng không dừng lại ở đó, ông kể thêm một chuyện khác, cùng một đề tài, có dính líu đến bản thân ông. Ông kể một hôm nào đó ông về Củ Chi thăm một bà má cơ sở đă che chở ông thời kỳ chiến tranh và được bà khoe với ông rằng số tiền bà dành dụm được bấy lâu bà đă lo cho một đứa cháu nội vượt biên, thoát rồi! Nhưng chưa hết: ông chưa kịp có ư kiến ǵ th́ sau khi nhỏn nhoẻn chùi xong vết trầu ở miệng bà cho biết tới đây bà sẽ bán miếng đất kế bên lấy tiền cho đứa cháu ngoại đi tiếp cho … nội ngoại công bằng!
Kể xong ông vẫn cười, tôi cũng cười theo nhưng bỗng thấy ḷng rưng rưng. Không biết ở đâu và làm sao mà ông nhặt được câu chuyện Bác Hồ ra đi t́m đường cứu nước lần thứ hai như vậy, và làm sao ông có thể đem câu chuyện thật đau ḷng về một bà má Củ Chi từng là cơ sở của ông để kể ra cho chúng tôi nghe một cách tự nhiên đến như vậy! Với ai th́ có thể là một chuyện b́nh thường, nhưng với một người cộng sản lănh đạo như ông th́ những câu chuyện đó đâu phải chuyện b́nh thường! Vậy mà ông vẫn kể những chuyện đó cho chúng tôi nghe như chúng tôi đă từng kể cho nhau nghe. Ông có khác ǵ chúng tôi đâu: trong thâm tâm tôi chắc ông đă hiểu rất rơ rằng những chính sách từ miền Bắc đưa vào sau khi chiến tranh chấm dứt, ồ ạt gọi là
“cải tạo xă hội chủ nghĩa”, nghe rất cao siêu nhưng thực tế lại không mang đến hiệu quả ǵ khác là đẩy người dân vào một t́nh trạng tuyệt vọng cùng cực đến phải bỏ nước ra đi! Với sự nhạy bén của một cán bộ thời hoạt động bí mật, ông đă nhận ra ngay sự nghiêm trọng của t́nh thế và trong cương vị của ḿnh ông đă cố gắng hết mực trong những khả năng có thể làm được, kể cả đi ngược lại đường lối chính thống, để t́m cách làm vơi bớt đi nỗi khổ cho những con người mà không có họ cuộc cách mạng của ông không thể có được một cơ ngơi như ngày nay!
Sau một thời gian tới lui với ông trong không khí ấm áp hiếm có của những năm đầu sau chiến tranh cực kỳ vất vả, một hôm tôi được nhà báo Thép Mới (lúc bấy giờ là người viết cho ông những bài phát biểu về văn hoá, văn nghệ) đề nghị tôi chuyển biên chế về Văn pḥng Thành uỷ, cùng với anh và một cán bộ nữa thành lập một tổ trợ lư về văn hoá cho ông. Tôi chấp nhận ngay nhưng về rồi mới nhận thấy cái h́nh thức tổ chức mà ông lập ra như vậy mang tính chất có vẻ t́nh cảm nhiều hơn thực tế. Thép Mới vẫn giữ công việc viết lách cho ông, c̣n tôi th́ chẳng có sự phân công cụ thể nào. Trong t́nh thế khó xử ấy, tôi đă tự t́m việc cho ḿnh bằng cách làm một báo cáo về quá tŕnh tiếp xúc một số trí thức văn nghệ sĩ của Sài G̣n cũ
hy vọng giúp ông hiểu họ nhiều hơn về chiều sâu của tâm tư. Sau vài ba tháng bản báo cáo ấy đă hoàn thành, ghi lại một cách trung thực những suy nghĩ của hơn 30 trí thức và văn nghệ sĩ về t́nh h́nh đất nước từ sau ngày 30-4-1975 đến lúc bấy giờ (đầu năm1982), toàn bộ văn bản đó đă toát lên những phê phán, chỉ trích rất nặng nề về những bất cập sai lầm do đường lối cải tạo của Đảng sau chiến tranh trên rất nhiều phương diện. Tôi gửi Thép Mới nhờ Văn pḥng Thành uỷ đánh máy chuyển cho ông, không biết ông có đọc được hay không v́ từ đấy về sau tôi ít có dịp gặp ông, trong khi đó th́ bên ngoài, báo cáo ấy không hiểu sao đă đến tay rất nhiều người trong đó có Lê Ngộ Châu, Nguyễn Hiến Lê, c̣n ở bên trong th́ không hiểu sao Trần
Bạch Đằng cũng có được một bản!
Tổ công tác đó tồn tại chưa bao lâu và cũng chưa làm được ǵ th́ chúng tôi được biết ông sẽ rời thành phố Hồ Chí Minh ra Trung ương nhận nhiệm vụ mới. Chuyện trước khi ra đi của ông có liên hệ đến cá nhân tôi cũng là một điều thật đáng nhớ. V́ ông không c̣n ở đây nữa nên tổ công tác do ông thành lập bị giải thể cũng là lẽ tất nhiên. Thép Mới là cán bộ cao cấp của báo Nhân dân và sẽ về với nhiệm sở của anh th́ không khó khăn ǵ, nhưng c̣n với tôi, ở biên chế Bộ Văn hoá, tôi đă là một món hàng phế thải, về làm việc với ông như một sự vụ tạm thời, nay ông đi rồi, sẽ làm việc ở đâu đối với tôi không có ǵ quan trọng, nhưng với một người t́nh cảm như ông, tôi biết ông cũng nghĩ tới như ông đă lo cho nhiều cán bộ trợ
lư của ông. Và thực tế ông đă làm như vậy. Một hôm nào đó ông mời một số cán bộ khoảng chục người gần gũi ông trong đó tôi nhờ rất rơ có Trần Bạch Đằng, và quan trọng hơn nữa là Tám Hồ, bấy giờ đang phụ trách Văn pḥng Thành uỷ, với một cán bộ tổ chức nào đó tôi quên tên, vào chỗ ở của ông ở An Phú bên sông Sài G̣n, để sau một bữa cơm, ông cho biết quyết định thành lập ra một bộ phận gọi là “Nghiên cứu chủ nghĩa thực dân mới về văn hoá”, do Văn pḥng thành uỷ quản lư và người phụ trách bộ phận nghiên cứu này là… Lữ Phương!
Với tôi, điều này thật bất ngờ! Tôi cảm nhận được ngay cái tính chất chênh vênh của một quyết định như vậy: một bộ phận nghiên cứu nghiêng hẳn về phần chuyên môn rất khó phù hợp với sự quản lư của một Văn pḥng hoàn toàn mang tính chất hành chính, sự vụ và tác chiến. Dù sao tôi vẫn cảm động về sự chu đáo của ông: ông cố t́m cách gài tôi vào một h́nh thức tổ chức nào đó để tôi không c̣n lông bông và … lộn xộn như trước nữa! Thấy không ai có ư kiến ǵ, ông có vẻ hài ḷng, sau đó ông rủ tôi theo ông đi khai mạc môt gánh hát Hồ Quảng đang ra mắt tại Nhà Hát Thành phố. Đi giữa một hàng rào cán bộ đón chào, tôi bước theo ông giữa hai hàng ghế về phía sân khấu, đến gần giữa rạp th́ bỗng hàng loạt những tràng pháo tay nổi
lên đón chào ông, tôi giật ḿnh vội vàng lùi lại để nhường ông đi tới, nhưng ông cũng đă vội vàng ôm vai tôi kéo lên phía truớc đi cùng với ông rồi sau đó để tôi ngồi kế bên ông cho đến hết buổi biểu diễn. Thực ḷng tôi không thể không cảm thấy ngượng nghịu khi được “ăn theo” cái niềm vinh dự của cá nhân ông, tuy vậy tôi thấy cách ứng xử của ông hôm ấy thật tuyệt diệu v́ thật tế nhị! Và đó là cái cảm giác và cũng là h́nh ảnh ảnh cuối cùng tôi gần bên ông trước khi ông ra Bắc cho đến 26 năm sau tôi mới có dịp gặp lại ông ở Sài G̣n.
Trong 26 năm đó ông đă trở thành một nhân vật quốc gia, góp phần không nhỏ vào việc đưa đất nước sang một khúc quanh phát triển và hội nhập mới, đẩy lui hẳn về quá khứ những ngày tối tăm sau chiến tranh. C̣n phần tôi th́ sau cái hôm đi xem Hồ Quảng với ông, tôi trở về Văn pḥng Thành uỷ, không làm điều ǵ hơn là cứ mỗi tháng đến lănh “sinh hoạt phí” một lần. Cái tổ chức mà ông muốn lập ra như một chuyện đă rồi và gài tôi vào đó như một chuyện đă rồi không thấy ai nói đến cả. Và cũng chẳng ai báo cho tôi biết cái quyết định mà ông đă đưa ra đó đă bị huỷ bỏ như thế nào và tại sao phải huỷ bỏ. Cũng chẳng ai nói ǵ đến chuyện công tác hay sinh hoạt Đảng của tôi nữa. Đă quá quen với những chuyện như vậy hồi ở Bộ Văn
hoá và cũng đă có chút kinh nghiệm để lường trước tính chất bấp bênh trong thời gian làm việc với ông, tôi đă tiếp nhận mọi việc xảy đến một cách b́nh thường. Tên tôi từ đó được nhập vào danh sách của một số “anh hùng Lương sơn Bạc” của Ban Tổ chức thành uỷ, hiểu như một số cán bộ thừa, không biết xử sự ra sao, không biết đưa về đâu. Hồ sơ Đảng tôi xin rút từ Bộ Văn hoá định đem nộp cho Tổ chức thành uỷ, trước t́nh h́nh ấy, đă bị tôi nhét vào xó tủ, sau đó th́ quên luôn và các tổ chức Đảng cũng chẳng ai quan tâm. Nhưng có lẽ có một ai đó ở thành uỷ sực nhớ một thời gian tôi có dính dáng đến cái tổ chức mang tên là Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ hồi trước chiến tranh, nên tôi đă được chuyển về
Mặt trận Tổ quốc thành phố, ở đây những người phụ trách h́nh như cũng không ai biết quá tŕnh công tác của tôi là ǵ nên cũng không biết căn cứ vào đâu để xếp lương mới cho tôi. T́nh trạng ấy kéo dài gần 20 năm.
Có một vài người thân biết điều đó đă đề nghị tôi viết thư cho ông để làm thêm một cuộc “khiếu nại” nữa, nhưng tôi không chú ư lắm: ông đă làm hết sức với tôi rồi và đă làm theo cái cách riêng của ông mà không phải ai cũng hiểu được. Nếu tôi được ông quan tâm một lần nữa và lại t́m cách “gài” tôi một lần nữa vào một h́nh thức tổ chức nào đó th́ cũng không có ǵ bảo đảm cuối cùng, do nhiều nguyên nhân, tôi sẽ không bị hất ra một lần nữa. Một cuộc cách mạng đă trở thành một guồng máy rồi. Ông vẫn xem guồng máy ấy là của ḿnh để đi theo nó đến cùng và t́m cách chuyển hoá nó và cũng gặp không ít khó khăn cho bản thân, không phải muốn làm ǵ cũng được. Không khác ǵ tướng Trần Độ là một người quen thân với
tôi, ông cũng t́m cách phả vào cái guồng máy vô hồn sau cách mạng đó một chút hơi ấm của những “ngày xưa”, nhưng nếu Trần Độ bị khai trừ v́ nhiều lúc quá quyết liệt th́ với những đức tính của ông, ông đă có đủ kiên tŕ và bản lĩnh để vượt qua và thực hiện được phần nào đó mục đích của ḿnh. Nhưng với tôi th́ lại khác hoàn toàn. Tôi có nhiều điều rất cách biệt với ông về mặt tư duy lẫn tính cách: tôi chỉ đến với cuộc cách mạng cộng sản như một sự gặp gỡ trên đường đi t́m một lời giải chung cuộc cho đời sống, v́ vậy tôi không hề muốn và cũng không thể trở thành một người hoạt động cách mạng chuyên nghiệp như ông. V́ thế khi từ giă ông rồi, như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, tôi lại mon men trở về với
cái tố chất mang tính định mệnh của ḿnh: măi măi đứng ra bên ngoài tất cả mọi guồng máy, nhất là những định chế nhân danh những điều hào nhoáng để đè nén con người. Thái độ ấy không phải lúc nào cũng có thể biện minh được trước thực tế nhưng với tôi đó lại là một chọn lựa có tính chất nền tảng.
Sau ngày ông về hưu và tiếp tục cuộc tranh đấu của ḿnh trong hoàn cảnh mới, nhiều anh em đă khuyên tôi nên đến thăm ông. Trong khi chưa có dịp th́ do sự xếp đặt của Châu Tâm Luân, tôi đă gặp được ông cùng với Vơ Như Lanh ở một hiệu ăn bên khu Thanh Đa suốt một buổi tối. Ông ôm tôi thật chặt và uống nhiều cốc rượu vang như ngày trước đă uống nhiều ly bia với tôi. Ông vẫn nhường lời cho tôi và tôi vẫn huyên thuyên đủ chuyện. Y như xưa, tiếng cười của ông vẫn thoải mái, hiền hậu, sự chân t́nh ấm áp vẫn không có ǵ thay đổi. Mặc dù mọi thứ trên đất nước suốt 26 năm qua đă thay đổi nhiều và riêng tôi th́ sự thay đổi lại quá nhiều mà chắc chắn ông đă biết. Tôi đă bỏ Đảng từ lâu, tôi đă phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin, phê phán
cả Hồ Chí Minh và đủ thứ chuyện khác về cuộc cách mạng mệnh danh là “vô sản” làm nền cho Đảng cộng sản Việt Nam. Không biết ông có đọc những ǵ tôi viết hay không, nhưng tôi chắc ông không thể nào không nghe người ta tường tŕnh về nội dung những điều tôi đă viết. Bây giờ ngồi đây với ông, tuy thân t́nh như cũ, tôi vẫn không thể biết ông đă nghĩ ǵ về những biến chuyển đó trong tôi, kể từ cái hôm tôi từ biệt ông sau khi đă cùng ông đi xem chung một tuồng Hồ Quảng ở Nhà hát Thành phố mà đến nay tôi hoàn toàn quên mất nội dung của nó.
Một chai vang đă cạn. Tôi lấy trong bọc ra cuốn sách tập hợp một số bài viết gần đây, tất cả đă xuất hiện ở các website hải ngoại, được đặt cho một cái tên chung: Tưởng nhớ một người anh em, phổ biến trong nước như một tài liệu chuyền tay và kư tên tặng ông. Lật qua vài trang, ông bỗng hỏi tôi một câu mà từ khi biết ông tôi thấy ít khi nào ông hỏi: “nghe nói Lữ Phương nghiên cứu nhiều về chủ nghĩa Mác phải không?”. Mặt đă hơi bừng bừng một chút, tôi đă nói với ông những lời bỗ bă sau đây: “Anh Sáu biết tại sao tôi quan tâm đến chủ nghĩa Mác như vậy không? Đó là do tôi nghe lời ông Đồng và ông Duẩn, hai ông này luôn khuyên nhủ cán bộ phải học tập chủ nghĩa Mác v́ không hiểu chủ nghĩa Mác th́ không thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xă hội. Nghe lời hai ông đó, tôi đă quay mặt vào tường trong suốt 10 năm để t́m hiểu; anh có biết sau đó tôi đă kết luận như thế nào không?”. Ông nhướng mắt lên và hỏi: “Sao?” Tôi nhớ đă trả lời ông một cách tỉnh queo câu sau đây: Tôi nói hai cha nội đó chẳng biết Mác là con mẹ ǵ hết! Không tưởng tượng được! Sau khi nghe câu nói báng bổ đó của tôi, ông đă cười phá lên, thoải mái như chưa bao giờ thoải mái đến như vậy! Không biết có đúng hay không, nhưng cái bí mật về chủ nghĩa Mác-Lênin mà ông không khi nào nói đến mỗi khi gặp tôi, dường như đă bộc lộ qua những tiếng cười của ông hôm đó.
Đó là kỷ niệm cuối cùng tôi nhớ về ông để chỉ mấy tháng sau tôi nghe tin ông mất. Hôm tang lễ của ông ở Hội trường Thống Nhất, tôi chỉ đứng ờ ngoài đường nh́n vào bên trong, ở đó chắc hẳn ông đă có quá nhiều ṿng hoa, nhiều lời ca ngợi, nhiều sự tiếc thương và ông xứng đáng với những điều trân quư đó. Tôi không mang theo ṿng hoa nào cho ông, cũng không định viết một điếu văn về ông. Tôi chỉ đứng đó nhớ tới ông như nhớ tới một con người đi chân đất, một con người mà chỉ với một lời cam kết có tính chất cội nguồn, đă vượt qua được sự vây ép và khống chế của cả một guồng máy khắc nghiệt được bảo vệ bằng những giáo điều xơ cứng, để giữ măi cho ḿnh được mối liên hệ hồn nhiên với đông đảo những con
người làm nên cái mảnh đất ngàn năm của ông. Cũng v́ lẽ đó, không màng đến sự vo ve của các ư thức hệ chống cộng, dù không c̣n là cộng sản nữa, tôi vẫn bầy tỏ ở đây nỗi tưởng nhớ đến ông như một trong những người cộng sản chân chính c̣n sót lại trên đất nước hôm nay.
Sài G̣n 17.7.2008
L.P.
|
|
rongchoi123
member
REF: 571796
10/17/2010
|
* Nguồn tin t́nh báo từ Nhật, Đài Loan và Tây Phương cho biết Trung Cộng đă sẵn sàng đánh phủ đầu và chiếm đóng VN trong kế hoạch 5 năm (2011-2016) và đánh chiếm Đài Loan (2016-2018). Trong ngày 30/09/2010, hàng trăm Hoả tiển tầm xa Đông Phong 21 đă được chuyển đến đảo Hải Nam với toạ độ phóng đến Hà Nội, Đà Nẵng, Sài G̣n.
Kế hoạch Đại chiến lược Trung Cộng và an nguy của Việt Nam, Taiwan, Nhật Bản.
Hoả Tiển tầm xa Đông Phong 21 của Trung Cộng.
Nữ kư giả Sakurai Yoshiko của báo Sankei của Nhật, một cây bút chính luận nổi tiếng vừa có một bài đăng trên tạp chí Tuần san Xuân Thu với nhan đề « Kế hoạch Đại chiến Lược của TC và an nguy của Việt Nam, Taiwan, Nhật Bản ». Theo bài chính luận đó th́ 28 năm trước Đề đốc Hải quân TC tướng Lưu Hoa Thanh đă đưa ra kế hoạch Đại Chiến Lược này và được Quân uỷ Trung ương TC đồng ư tạo cơ sở phát triển hiện đại hoá quân đội. Theo kế hoạch này th́ giai đoạn 4 của nó tức vào năm 2040 th́ Hải quân TC sẽ không chế toàn bộ biển Thái B́nh Dương và một nửa phía Đông của Ấn Độ Dương để tạo hành lang bảo vệ cho sự phát triển kinh tế của TC. Để đạt được mục tiêu này th́ cho tới năm 2040 TC phải nhổ cho được 2 cái gai cản trở đường tiến xuống phía Nam của hải quân TC là Việt Nam và Đài Loan, b́nh định đưa Việt Nam và Đài Loan trở lại lănh thổ Trung Hoa.
Theo cách suy nghĩ của giới lănh đạo TC th́ trong quá khứ Taiwan là của TC và Việt Nam là một quốc gia sách phong thuộc TC, việc thu hồi sát nhập Việt Nam vào TC là có cơ sở lịch sử. Đối với Nhật Bản th́ vị trí địa chính trị của Việt Nam và Taiwan rất quan trọng với Nhật, nếu Việt Nam và Taiwan rơi vào tay TC th́ Nhật Bản cũng bị uy hiếp v́ toàn bộ tuyến đường vận tải biển huyết mạch kinh tế của Nhật phải đi ngang qua vùng Nam phương quần đảo (tức Trường Sa, Hoàng Sa, Đông Sa).
Nh́n thấy mối nguy này nên 6 năm trước Thủ Tướng Koizumi của Nhật đương thời đă đề nghị với Thủ Tướng Phan Văn Khải cho Nhật Bản thuê căn cứ Cam Ranh để Hải Thượng Tự vệ Đội của Nhật làm căn cứ trên danh nghĩa để ngăn ngừa cướp biển dọc eo Malacca nhưng thực tế là để tạo một mũi dao chọc thủng kế hoạch này ngăn ngừa đường tiến xuống phía Nam bành trướng Biển Đông của TC. Tuy nhiên lời đề nghị đó của ông Koizumi đă bị Thủ Tướng Phan Văn Khải bác bỏ sau khi có áp lực của TC cũng muốn Việt Nam nhượng cho họ Cam ranh để làm căn cứ hải quân.
Việc Thủ Tướng Koizumi rồi đến Thủ Tướng Abe của Nhật ve văn muốn tạo ảnh hưởng của Nhật lên giới lănh đạo VN như ông Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng thông qua viện trợ ODA ưu tiên đặc biệt cho VN, Thiên hoàng tặng huân chương cho Phan Văn Khải, mời Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước quốc hội Nhật, các chương tŕnh giáo dục về nghiệp vụ hành chánh, trợ giúp về việc biên soạn cải sửa Luật pháp theo hướng Dân Chủ kiểu Nhật ... đều nhằm mục đích kiềm chế ảnh hưởng của TC lên VN. Với các chính trị gia của Đảng Tự Do Dân Chủ Nhật Bản một nước VN dân chủ, kinh tế vững mạnh, đứng thẳng trước TC là chiếc khiên chống đỡ cho sự an nguy sống c̣n của Nhật. Vấn đề là giới lănh đạo VN có biết lợi dụng cơ hội này để nâng cao vị thế uy tín cũng như phát triển quốc gia hay không ?
Minh Thanh 2010/10/11
Thi thu nghi quang doc
Thiên ha su da tri
TN.
|
|
zatoichi
member
REF: 571809
10/17/2010
|
Chuyện TQ đánh VN lúc này, th́ ḿnh nghĩ chưa xảy ra đâu, v́ c̣n nhiều yếu tố quốc tế chưa có lợi, nhất là từ phản ứng phía Mỹ. Họ chỉ có thể đánh ở một thời điểm khác trong tương lại, tuỳ hoàn cảnh QTế lúc đó, thí dụ như Mỹ bị kẹt ,hay vuớng phải khó khăn nào đó ở khu vực khác, th́ lúc đó sẽ không có thời giờ để can thiệp vào vùng biển Đông, hay bị hạn chế.
Hoặc một khả năng khác khiến Mỹ không tham dự can thiệp ,là nếu VN hoàn toàn tự nguyện nằm vào quĩ đạo lệ thuộc TQ hoàn toàn.,lúc đó Mỹ sẽ không cần can thiệp vào nếu có chiến tranh TQ-VN.. mà lúc đó Mỹ chỉ lo củng cố khu vực Đông Nam Á c̣n lại ,bao gồm các nuớc Phi,Mă,Nam Dương, Nhật,Hàn,Đài Loan,..,vốn đều là đồng minh lâu đời mà Mỹ thấy phải cần bảo vệ.
Hiện tại ở châu Á ,Mỹ có tới 3 pḥng tuyến ,để cản TQ bành trướng:
tuyến 1 : chính là VN , v́ ở vị trí địa lư trực tiếp.,nếu tuyến này VN cho thấy là không cần Mỹ ,mà đi theo TQ hoàn toàn v́ cũng t́nh đông chí CS, th́ Mỹ không c̣n cách ǵ hơn là bỏ VN. Nên nhớ ,ngay sau 1975, Mỹ "bị " đuổi ra khỏi VN ,th́ cũng chính là lúc TQ đánh VN thật sự, đánh thật đau ! Thế th́ t́nh anh em vô sản ở chỗ nào !! Tên t́nh nhân TQ khi thấy Mỹ ra ,là sẵn sàng "vú phu " với cô gái VN liền . Bài học lịch sử !! Đừng quên. Thế mà không ít người VN ,tŕnh độ chính trị c̣n yếu, không thấy điểm này, mà chỉ ghét Mỹ theo cảm tính, v́ quá khứ, hay v́ bị tuyên truyền theo kiểu "địch-ta, phe CS- phe Tư Bản cũ rích !. Nói cách khác ,ngày nào Mỹ rút khỏi VN, là ngày VN cũng nên chuẩn bị làm 1 tỉnh của TQ là vừa, hay phải gánh tổn thất nặng nếu có chiến cuộc xảy ra.
tuyến 2 : là khu vực phía dưới 1 chút gồm các đồng ḿnh Mỹ trong khối Assean cũ, tuyến này mạnh và quan trọng nhất với Mỹ. TQ sẽ bị đứng thật sự sau khi nuốt VN ! sẽ không đi xa đuợc nữa.!!
tuyến 3 : t́nh huống xấu nhất, nếu không cản đuợc TQ ở tuyến 2. Th́ sẽ là tuyến cực Nam Á Châu : gồm Úc, Tân Tây Lan , thêm hạm đội tàu ngầm nguyên tử Mỹ cũng đủ sức đối phó TQ rồi. Hiện tại th́ có vài tàu ngầm Mỹ hoạt động ở ṿng đai tuyến 2, chủ yếu bảo vệ Đài Loan nếu TQ đánh úp bất ngờ truớc khi Mỹ kịp lên kế hoạch phản công.
Thế nên ta chỉ nên nhớ ,lúc nào VN chính thức rơ ràng lệ thuộc đi theo TQ, th́ Mỹ sẽ dùng bài khác, và lúc đó VN cũng truớc sau ǵ trở thành 1 phiên bang của nhà nuớc Trung Nam Hải , dẫu ǵ 2 nuớc cũng đă từng là đồng chí với nhau rồi...
Và VN có thể hiểu điều này (rút kinh nghiệm năm 1979, khi không thèm bang giao với mỹ, ra sức trung thành với CNCS kiểu anh em đồng chí, và bị chính TQ đánh liền ), lần này VN sẽ đu dây giữa 2 thế lực này, nhưng rồi cũng sẽ không thể giữ lâu t́nh trạng đó, khi bị sức ép liên tục từ TQ, Mỹ th́ có lẽ không cần ép, v́ Mỹ có nhiều tuyến để chặn TQ.
Một quan hệ phức tạp và nhiều diễn biến (lời bác LyNhat)
|
|
zatoichi
member
REF: 571822
10/17/2010
|
Ḿnh ít khi nào để ư nhiều về mấy khả năng của các cán CS nói chung, v́ ḿnh đánh giá họ thấp, chẳng qua họ tự đóng khung ḿnh trong các lư luận Mác Lê, họ ssống trong vỏ bọc đó ,nênkhông có dịp nh́n ra ngoài , ví nhu ếch đáy giếng vậy. Nguời Cs nói chung không có ǵ đặc sắc, v́ lư luận CS đă trói buộc họ trg cái tư duy đó. CS là tự bỏ đi cái cá nhân,cá tính đă tạo ra chính bản sắc ḿnh.Nói cách khác là tự bỏ đi cái tôi chính ḿnh (sự vong ngă), mà bỏ đi cái đó ,của ḿnh, th́ ḿnh là ...cái ǵ ??
Người Cs đă thành công ở các xứ CS, chẳng qua nhờ sự viện trợ để bành trướng của LX , đơn giản chỉ có vậy, thế nên thời LX cố bành trướng CNCS mọc khắp nơi nhờ tiền bạc LX , và hậu quả là LX vỡ nợ, đó là chưa nói đến những ứng dụng ,mô h́nh của chính CNCS đă hoàn toàn thất bại thê thảm ngay tại quê hương Lenin, kinh tế sai lầm . Nói cách khác CNCS đă không thể thành công bằng
chính tính thuyết phục của nó, bằng qua thực tiễn ,mà nó lớn mạnh chủ yếu bằng tiền bạc viện trợ free từ LX, nên đứa trẻ CS đă lớn nhanh một cách ...bất b́nh thường, có năo trạng hao tổn nặng, trong thể xác non kém ,nên khi chính mẹ nó chết ,mấy đứa con cũng sống ngắt nghẻo ...thế nên người CS không có ǵ đặc sắc hay tài giỏi, họ chiếm đuợc chính quyền chỉ qua hành động quân sự ,bạo lực từ tiền bạc của LX, vậy thôi, chưa kể gây ra máu đổ khi tiến hành điều này, ngay trên xứ sở của họ..rập khuông từ LX. Nên ḿnh đánh giá thấp con người CS là vậy. Họ chỉ nh́n phiến diện chỉ dưậ vào vài lư thuyết Mác Lê vốn tồn tại rất nhiều khuyết điểm ,nếu chỉ nh́n Mác Lê như 1 lư thuyết triết học. Họ thắng và tồn tại ,đơn giản chỉ bằng bạo lực nhờ tiền LX.
Thực tế khi nắm quyền và điều hành theo hệ CS , th́ thất bại hoàn toàn cái mớ thuyết này. Ai cũng thấy, nên bây giờ các đảng CS c̣n lại đều cố bấu víu vào chủ thuyết này, đơn giản chỉ để có lư do mà c̣n tồn tại cái đảng và CS và tiếp tục cai trị, trong khi mọi đuờng lôi kinh tế đều y chang như Tư Bản , thế th́ sao họ không tự nh́n nhận điều này ? Đơn giản chỉ để cắt nghĩa sự tồn tại mang tính "chính đáng" của họ.
vài nhân vật "cấp tiến" như Vơ v Kiệt cuối đời, cũng chẳng có ǵ cho thấy ông là người đặc biệt cả, chẳng qua ông chỉ là người "đỡ" tệ hơn mấy đám cán khác thôi, nói cách khác ,v́ ông đă lỡ làm "cán " cao cấp của CNCS rồi.
Ḿnh chỉ coi ông khá 1 chút chỉ v́ ông ta là người CS mà vẫn c̣n thấy cái "thiếu" xót của CS , mà cũng chỉ nói ṿng vo hay dùng từ ám chỉ vớ vẩn để che dấu ư chính của ông ta, vậy thôi, chứ bên người KHÔNG CS th́ không thiếu nhân tài.
một người khác mà ḿnh thật sự tiếc tài ,là ông Trần Xuân Bách (cựu uỷ viên bộ CT,năm 70-80 ǵ đó), sắp đuợc làm Bí thư đảng CSVN, th́ bị loại liền bởi nhóm thiến Đỗ Mừi,Le đứt Anh...ông Bách đă nh́n thấy cái sai của CNCS, và đề nghị đổi mới ,th́ bị văng chức liền, sau ông Kẹt cho làm thành viên trong ban nghiên cứu của Kẹt.
Nói chung người CS loại lành tụ ,không có ǵ đặc biệt họ chỉ có thời,đuợc lên ngồi chồm hổm trên bàn cai trị, vậy thôi.
|
|
sontunghn
member
REF: 571830
10/17/2010
|
Về hưu thành kẻ trọc đầu
Tha hồ mà nói ai nào túm ông
Đang đương chức sợ bất đồng
Nói ra mất ghế th́ không c̣n ǵ
Dân Việt nhũn như chi chi
Chỉ mạnh mồm nói những khi không người
Thà im đi đỡ bị cười
C̣n hơn là nói những lời vuốt đuôi?
ST
|
|
zatoichi
member
REF: 575496
11/07/2010
|
Chuyện bài viết như cô gái đồ long (CGĐL) về thế giới ăn chơi của các người nổi tiếng ,th́ cũng chẳng có ǵ mà phải xử như vậy. Ở xứ người cùng lắm là bị bên kia đưa ra toà xử (dân sự nhiều hơn,không ở tù),không coi là tội h́nh sự.
Cái ngạc nhiên là ở xứ VN th́ không thấy...nguyên đơn tố cáo (người bị nói xấu kiện), mà chỉ thấy CA kiêm luôn cái job này, bắt và nhốt cô kư giả ! Từ mấy ông lớn CA ,ai cũng tỉnh bơ nói là đúng luật và ...khách quan.
Cũng không hiểu sao, cô này không viết ai khác, mà lại viết đến cậu quí tử đỏ của cái chế độ của riêng các Cán bộ đỏ gộc cai trị xứ này !! (diện : Con Ông Cháu Cha, CÔCC, "Con Ông Có Cán",, mà ḿnh đă từng nói đến cái giới này là bất khả đụng đến !!). Thật có muốn vô tù hok đoá ?? Đụng râu hùm rùi..
Cậu ấm đỏ này sinh ra dưới ngôi sao ...quá ngon lành...dân chơi người ta thường nói, tuy cậu không có nhiều tiền cỡ Cuờng USD, nhưng nói về ...gia thế, gia cảnh cậu, th́ hơn hẳn cậu đại gia phố núi C kia...
Cậu luôn có trên 10 ngàn đô la trong túi mỗi ngày để tiêu xài thoải mái, cậu c̣n đủ sức để gửi người iu đi du học, du lịch tuốt bên Anh quốc lận...thử hỏi tiền đâu mà nhiều thế...trong khi bố cậu chỉ là ..thượng tuớng CA "quèn" , số 2 ! trong bộ này !!? và chưa hết, 1 cái gốc khác của cậu c̣n bự.. "tổ chẳng" hơn gốc CA bố cậu nữa : Má cậu (bà Lin.) là ..con gái...ông Phó TT : Ng Za Khỉ kiêm pộ chưởng Ngoại Giao, kim ỉ viên chính chị chính em của VN xă hụi nữa ..! th́ gốc cậu này....quả là ...pự gê ! Ai dám đụng đến. Cỡ như Ng Tấn Ḿ chắc cũng hok dám làm cậu buồn nữa là cái cô phóng viên quèn kia.
Thế nên cô ơẻ tù là đúng rồi. Đụng đại gia ngành "buôn dân" là chít ĺn...
VN ngày nay, bên cạnh các ông cán đại lớn, c̣n có đám thê tử đàng sau (thường làm chủ ,kinh doanh các cty sân sau thường hay trúng thầu các dự án nhớn !, đây là một thế lực ngầm đi kèm) cũng có uy quyền ngầm không kém, những dạng "mẫu...hậu" ,"hoàng tử tân thời .! Họ cũng ..lănh đạo ấy chứ, chỉ bằng lời nói thui...
Như ta đă biết,mối liên hệ họ hàng,sự quan hệ phe cánh,đều là những lực ngầm quyết định các chức vụ quan trọng ở chóp bu cái đảng duy nhất ở VN. Và đất nuớc mà chủ thật sự lại nằm ở những liên hệ như vậy ,th́ làm sao mà chống tham ô đuợc ? Các nuớc tiến bộ đều do người dân bầu thật sự các viên chức, nên khó có quan hệ để tham nhũng, nhưng ở đây ta thấy chỉ là nội bộ chia nhau các chức vụ, nên họ ...quen nhau hết, th́ ..chống làm ǵ h́ h́.. Cán lớn đều có người nhà nắm các chức lớn hết, th́ ...chơi nhau làm chi, trừ phi có chuyện mâu thuẫn lớn. ,cũng có xảy ra,đụng giữa các phe.. dĩ nhiên vây cánh ai mạnh th́ thắng. đơn giản có vậy thui...
Cậu ấm này ,bố CA gộc, ông ngoại là PTT kim Bộ trưởng ,kim ỉ viên CT...th́ cỡ cô gái đồ long là cái ǵ nhỉ !..mà dám nói xấu cậu ta ? Lại kiến đ̣i đụng củ khoai rùi...
Chuyện vui xứ xă nghĩa..." Gia đ́nh trị,Phe phái trị.."
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|