capheden
member
ID 69019
08/13/2011
|
Chuyện về một hầu bàn người Nhật
Một lời từ chối lịch sự, một cái cúi đầu, một bước đi lùi, một nụ cười thân ái, một gương mặt tự tin chỉ của một người hầu bàn đă một lần nữa làm nên nhân cách người Nhật.
Cả lượt đi và về Hà Nội - Boston và Boston - Hà Nội, tôi đều quá cảnh ở sân bay Narita, Tokyo chừng dăm tiếng đồng hồ. Khi mua vé, một số người khuyên đừng đi qua Nhật v́ có thể bị nhiễm phóng xạ. Nhưng có lẽ v́ tôi đă quá cảnh Tokyo nhiều lần rồi nên thành thói quen và cũng thấy nhớ. Và thú thực, tôi cũng muốn được quan sát nước Nhật đang sống như thế nào sau cơn " tiểu hồng thủy" mới tràn qua cho dù chỉ ở một trong không gian nhỏ là một sân bay. Báo chí đă nói về bản lĩnh và nhân cách người Nhật sau thảm họa sóng thần cũng như bản lĩnh và nhân cách người Nhật sau khi người Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất nước này. Và cả bản lĩnh của người Nhật ngay khi dân tộc họ trở thành một trong những dân tộc giàu có nhất thế giới.
Ở nhiều nơi trong khu vực sân bay Narita, người ta có dán một tờ giấy với nội dung nước Nhật đang gặp khó khăn sau thảm họa sóng thần nên thiếu năng lượng, v́ vậy quản lư sân bay xin lỗi hành khách khi hệ thống điều ḥa trong khu vực sân bay không thể phục vụ hành khách như trước kia. Lúc đầu không nh́n thấy lời xin lỗi đó, tôi tỏ ra khó chịu với sự nóng bức trong sân bay sau một chuyến bay quá dài. Nhưng khi đọc được lời xin lỗi đó th́ tôi lại thầm xin lỗi những người Nhật. Lúc đó, tôi thấy ḿnh thật ích kỷ. Sống tử tế thật khó. Có lẽ chỉ khi chết rồi con người mới có thể tuyên bố rằng ḿnh đă sống hoàn toàn tử tế.
Tôi là kẻ nghiện thuốc lá. Bởi thế, xuống đến sân bay là tôi đảo mắt kiếm t́m pḥng hút thuốc. Cho đến bây giờ, chỉ ở Mỹ là tôi không t́m thấy pḥng hút thuốc trong sân bay c̣n tất cả các sân bay tôi đă từng qua đều có pḥng hút thuốc. Nhưng chưa ở đâu, pḥng hút thuốc trong sân bay lại rộng, đẹp và sạch như ở sân bay Narita. Tất cả mọi thứ trong pḥng hút thuốc ở Narita đều đẹp và sạch như là một pḥng khánh tiết. Nh́n là biết những người quản lư sân bay đă quan tâm đến cái pḥng hút thuốc như thế nào. Nhưng xin bạn nhớ rằng họ quan tâm không phải v́ họ khuyến khích người ta hút thuốc mà là lối sống văn hóa của họ. Hút thuốc có hại sức khỏe cho người hút thuốc và cũng có hại phần nào đó cho người bên cạnh. Nhưng không v́ sự có hại đó mà người không hút thuốc tẩy chay người hút thuốc. Phép ứng xử với những người hút thuốc qua cách thiết kế và chăm sóc các pḥng hút thuốc là một phép ứng xử văn hóa của những người quản lư sân bay Narita. Hút thuốc không có tội, nghĩa là không vi phạm luật pháp trừ khi anh hút thuốc ở nơi cấm hút. Và v́ vậy, người hút thuốc phải được ứng xử một cách văn hóa và b́nh đẳng. Tôi nói vậy v́ tôi thấy pḥng hút thuốc ở nhiều sân bay trên thế giới giống như địa ngục. Một cái pḥng nhỏ xíu chỉ dăm người vào hút thuốc là chật cứng. Những người hút thuốc chen nhau trong mù mịt khói thuốc trông thật thảm hại. Có lẽ những người quản lư ở các sân bay đó t́m cách đày đọa và sỉ nhục những người hút thuốc để cho họ phải bỏ thuốc chăng ?
Tôi c̣n nhớ măi một trong những câu chuyện đau ḷng trong các trại giam giữ những người Việt Nam vượt biên ở Hongkong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Cảnh sát Hongkong cai quản những trại đó đă ra lệnh những người Việt Nam vượt biên mỗi ngày mỗi người phải bắt 50 con ruồi th́ mới được phát khẩu phần ăn. Đó là một sự sỉ nhục. Đó là vô lương tâm. Tôi đă trực tiếp tṛ chuyện với một số người từ trại đó trở về. Họ đă khóc khi kể lại câu chuyện bắt ruồi để được ăn. Trước kia tôi không nghĩ đến việc bỏ thuốc lá. Nhưng khi nh́n những pḥng hút thuốc ở sân bay Narita và cách những người lao công lau chùi pḥng hút thuốc đă làm tôi nghĩ tới việc bỏ thuốc lá. Người ta chỉ có thể thức tỉnh con người bằng văn hóa chứ không bao giờ thức tỉnh con người bằng áp bức dưới bất cứ h́nh thức nào được.
V́ thời gian quá cảnh ở sân bay Narita quá dài nên chúng tôi t́m đến một quán ăn trong sân bay. Tôi gọi một bát ḿ hải sản. Theo trí nhớ của tôi th́ giá một bát ḿ như vậy vẫn không có ǵ thay đổi sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và đặc biệt sau thảm họa sóng thần. Lúc đó, nghĩ lại những cơn băo giá ở trong nước như trận đồ bát quái mà người tiêu dùng không thể t́m thấy đường thoát ra. Khi chúng tôi ngồi vào bàn th́ một người hầu bàn bước đến cúi đầu chào chúng tôi và hỏi chúng tôi dùng ǵ. Rồi anh mang nước cho chúng tôi. Lúc đó, tôi vô t́nh chạm vào tay anh và làm đổ cốc nước. Nước làm ướt một chiếc giày của tôi. Trong khi tôi lúng túng chưa biết làm ǵ th́ người hầu bàn đă nói lời xin lỗi và quỳ xuống lau chiếc giày của tôi bằng một chiếc khăn trắng tinh. Tôi thực sự bất ngờ và thấy xấu hổ. Tôi nghĩ đến cách ứng xử của những người Việt Nam ở những nơi công cộng. Người hầu bàn lau chiếc giày bị ướt của tôi kỹ lưỡng như đang lau một viên kim cương. Tôi cam chắc rằng nếu một người hầu bàn trong những quán ăn ở Việt Nam cúi xuống lau giày cho khách th́ họ sẽ rất xấu hổ. Nhưng họ biết đâu rằng : chính tôi, người có chiếc giày được lau, mới là người thấy xấu hổ chứ không phải là người lau chiếc giày ấy cho tôi.
Khi ăn xong, tôi đă để lại một món tiền tip kha khá v́ muốn bày tỏ sự biết ơn của ḿnh với người hầu bàn đó. Nhưng người hầu bàn nói họ không nhận tiền tip. Một lần nữa, tôi thực sự ngạc nhiên. Tôi cố t́m cách đưa tiền tip cho người hầu bàn nhưng người hầu bàn vẫn nhă nhặn từ chối. Năm 1992, trong chuyến đi đầu tiên của ḿnh đến Mỹ, tôi có đến một quán ăn người Việt ở New York. Khi ăn xong tôi đă để 10 đô la tiền tip lại. Người hầu bàn là một người Mỹ gốc Việt đă tỏ ra vô cùng bực bội với tôi v́ tôi đă không để 12 đô la mà chỉ để 10 đô la. Sau này tôi mới biết họ tính phần trăm tiền tip theo tổng giá của bữa ăn. Tôi thực sự không biết điều đó. Sao người hầu bàn kia không giải thích cho tôi? Và sao người hầu bàn kia không có thể nói: "Quư ông c̣n thiếu 2 đô la tiền tip theo quy định, nhưng nếu quư ông không có 2 đô la th́ cũng không sao. Mong quư ông trở lại nhà hàng chúng tôi để chúng tôi được phục vụ quư ông". Nếu nói như vậy, người hầu bàn và nhà hàng của anh ta sẽ không bao giờ mất 2 đô la (v́ đương nhiên tôi sẽ trả thêm) mà c̣n được một cái ǵ đó giá trị gấp ngàn lần giá trị của 2 đô la kia. Và chắc chắn những lần tới New York sau đó tôi sẽ t́m đến nhà hàng đó. Bởi có ǵ hạnh phúc hơn khi được trở lại một nơi chốn đă từng gieo vào ḷng ḿnh sự xúc động và kính trọng. Nhưng bây giờ, trong các nhà hàng ở Mỹ, người ta tính tiền tip vào luôn hóa đơn thanh toán. Nghe rất khoa học và ṣng phẳng nhưng vẫn không ổn ở một khía cạnh nào đó.
Sau khi từ chối tiền tip, người hầu bàn hỏi chúng tôi có cần ǵ nữa mà anh ta có thể phục vụ chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn anh. Anh cúi đầu chào chúng tôi và bước lùi một bước mời chúng tôi đi. Một lời từ chối lịch sự, một cái cúi đầu, một bước đi lùi, một nụ cười thân ái, một gương mặt tự tin chỉ của một người hầu bàn đă một lần nữa làm nên nhân cách người Nhật. Họ đă từ một đất nước nghèo nàn và tan hoang v́ chiến tranh trở thành một đất nước văn minh, văn hóa và giàu có. Họ không bán hàng giả, hàng độc hại, họ không dùng tiền hay vũ khí đe dọa người khác. Sự nhẫn nại trong hành động lau chiếc giày cho khách và sự chối từ tiền tip của người hầu bàn Nhật và sự nhẫn nại của người bán trứng Trung Quốc và cách ăn ḿ tôm của cậu sinh viên Trung Quốc hoàn toàn khác nhau.
Sự nhẫn nại của người Nhật là sự rèn luyện nhân cách, là ứng xử văn hóa, là sự tôn trọng con người và ư chí vươn lên. Sự nhẫn nại đó không chứa đựng những tham vọng ngông cuồng và những mưu mô. Cũng như người Nhật đă dạy cho con em của họ về những khó khăn mà dân tộc Nhật phải đương đầu, dạy cho mỗi người Nhật hăy bằng hành động trung thực của ḿnh làm cho văn hóa Nhật, nhân cách Nhật cũng như giá trị những sản phẩm made in Japan lan tỏa vào ḷng con người trên toàn thế giới chứ không phải là những cuộc "xâm lăng" đầy mưu tính đôi khi phi nhân và ác độc.
Nguyễn Quang Thiều
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat