northwind
member
ID 53184
06/21/2009
|
7 KỲ QUAN THẾ GIỚI CỔ ĐẠI
1.Vườn treo Babylon
Vườn treo Babylon (cũng được gọi là Vườn treo Semiramis) và những bức tường của Babylon (Iraq hiện nay) từng được coi là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Chúng được cho là do vua Nebuchadnezzar II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN .Trong đó cây được treo trên mái hiên.
Trong vườn treo có một hệ thống đài phun nước gồm hai bánh xe lớn liên kết với nhau bằng dây xích có gắn thùng gỗ. Khi bánh xe quay, dây xích và thùng nước cũng chuyển động đưa nước ở một cái bể phía dưới lên trên cao tưới nước cho cây.Để tưới nước cho hoa và cây của khu vườn, các nô lệ phải luân phiên nhau đưa nước từ ḍng sông Euphrates lên khu vườn.
Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylon về sự tồn tại của những chiếc vườn như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đă nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đă tồn tại ở Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đă được t́m ra. Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ ǵ đó tương tự như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết.
Theo những miêu tả, các vườn treo được xây dựng nên để cho bà vợ của Nebuchadnezzar là Amyitis khuây nỗi nhớ quê hương. Amyitis là con gái vua Cyaxares xứ Medes, đă cưới Nebuchadnezzar để tạo nên một liên minh giữa hai nước. Quê hương bà là một vùng đất xanh tươi với những núi non hùng vĩ, và bà coi vùng đất Lưỡng Hà (một vùng ở phía Tây Nam Châu Á) bằng phẳng bị mặt trời thiêu đốt là buồn chán. Nhà vua quyết định tái tạo lại quê hương hoàng hậu bằng cách xây nên một vùng núi non nhân tạo bằng những vườn treo trên mái nhà.
Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công.
Nhà địa lư Hy Lạp Strabo, người đă miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đă viết: “Nó gồm những ban công xây h́nh ṿm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột h́nh khối. (Nó) Có những chỗ lơm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các cột, ṿm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”
Những cuộc khai quật gần đây tại thành phố Babylon cổ ở Iraq đă phát hiện ra móng của cung điện. Những thứ khác gồm Toà nhà h́nh ṿm với những bức tường dày và một giếng nước tưới gần cung điện phía nam. Một nhóm các nhà khảo cổ đă khảo sát khu vực đó của cung điện phía nam và tái hiện lại Toà nhà h́nh ṿm như là những Vườn treo. Tuy nhiên, nhà sử học Hy Lạp Strabo đă nói rơ rằng vườn nằm gần sông Euphrates. V́ thế những người khác cho rằng vị trí này quá xa Euphrates để ủng hộ giả thuyết đó v́ Toà nhà h́nh ṿm cách xa đó tới vài trăm mét. Họ tái hiện lại của cung điện và vị trí Vườn treo nằm trải dài từ sông tới Cung điện. Trên hai bờ sông, gần đây người ta đă t́m thấy nhiều bức tường dày 25m có thể từng là những bậc để tạo nên các sân thượng... những bức tường như được miêu tả trong các văn bản Hy Lạp.
2. Hải đăng Alexandria.
Hải đăng Alexandria là ngọn đèn biển được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên trên ḥn đảo Pharos tại Alexandria, Ai Cập làm tín hiệu thông báo của cảng, và sau này là một ngọn hải đăng.
Chiều cao đèn biển được ước tính khá khác biệt từ 115 đến 135 mét (383 - 440 ft) nó là một trong những công tŕnh nhân tạo cao nhất Trái đất trong nhiều thế kỷ và được các học giả cổ đại coi là một trong bảy kỳ quan thế giới.
Hải đăng ngừng hoạt động và bị phá huỷ nặng nề sau hai trận động đất trong thế kỷ 14; một số di vật của nó vẫn c̣n được các thợ lặn t́m thấy tại đáy biển Cảng phía đông Alexandria năm 1994. Những tàn tích khác đă được khám phá qua các bức ảnh vệ tinh.
Được xây dựng từ những khối đá lớn sáng màu, tháp có ba tầng: phần thấp h́nh vuông với một lơi trung tâm, phần giữa h́nh bát giác, và đỉnh h́nh tṛn. Đỉnh của nó có đặt một tấm gương phản chiếu ánh mặt trời vào ban ngày; hay một ngọn lửa vào ban đêm. Những đồng tiền La Mă hiện c̣n do người Alexandrian chế tạo ra cho thấy mỗi bốn góc tường đều có đặt một bức tượng người cá. Thời La Mă, có một tượng Poseidon đứng trên đỉnh hải đăng.
Thiết kế các tháp thánh đường Hồi giáo trong nhiều thế kỷ trước kia đều học theo kiểu thiết kế hải đăng này, chứng minh tầm ảnh hưởng kiến trúc lớn của công tŕnh.
Truyền thuyết cho rằng ánh sáng từ hải đăng đă được sử dụng để đốt cháy chiến thuyền địch trước khi chúng có thể cập bờ, tuy nhiên điều này khó có thể xảy ra v́ tŕnh độ quang học và công nghệ khá thấp thời kỳ đó. Một truyền thuyết khá ấn tượng khác – và có lẽ xác thực hơn – là ánh sáng từ trên hải đăng có thể được nh́n thấy từ cự li 35 dặm (56 km) từ bờ biển.
Chữ Pharos (tên ḥn đảo) sau này trở thành từ nguyên của từ 'đèn biển' trong nhiều ngôn ngữ ngữ hệ La Mă, như tiếng Pháp (phare), tiếng Italia (faro), tiếng Bồ Đào Nha (farol), tiếng Tây Ban Nha (faro) và tiếng Rumani (far).
3. Tượng thần Zeus ở Olympia (chúa tể của các vị thần Hy Lạp do nhà điêu khắc vĩ đại Pheidias tạc).
Tượng thần Zeus ở Olympia (thường gọi là thần Dớt) là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Bức tượng do nhà điêu khắc cổ đại nổi tiếng là Phidias tiến hành (thế kỷ thứ 5TCN) khoảng năm 435 TCN tại Olympia, Hy Lạp.
Ngay từ thế kỷ thứ nhất TCN, nhà địa lư Strabo đă viết rằng "Dường như thần Zeus đang định đứng lên", "thần sẽ lật tung mái đền."[cần dẫn nguồn]
Bức tượng ngồi chiếm toàn bộ chiều rộng gian đền chứa tượng, cao 12 mét (40 feet), đặt trên đế làm bằng đá cẩm thạch cao 1m. Tượng thần Zeus được làm từ ngà voi (về mặt kỹ thuật, ngà voi được ngâm trong chất lỏng để làm mềm, và v́ thế có thể chạm cũng như tạo h́nh theo nhu cầu) sau đó được phủ bằng các tấm vàng (v́ thế gọi là ngà dát vàng) và ngồi trên một ngai gỗ tuyết tùng khảm ngà, vàng, và các loại đá quư rất lộng lẫy có chạm khắc những trận đấu điền kinh ở Olympia. Đầu thần Zeus trang điểm ṿng hoa ôliu, thần có khuôn mặt hiền từ, đôi mắt màu hồng tinh anh, nh́n thẳng, lông mày và lông mi đen, mũi dọc dừa, cḥm râu rậm, đôi môi dày cương nghị, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo choàng làm bằng vàng. Tay phải thần Zeus cầm một pho tượng Nike - vị thần chiến thắng - nhỏ, và trong tay trái là một cây vương trượng bằng kim loại có chú đại bàng đậu trên, tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần. Chân thần đi dép vàng đặt trên một chiếc bàn trang trí những con sư tử vàng, đặt lên một ghế lớn. Nửa trên của tượng được dát bằng ngà voi, vàng nhạt ngả về màu hồng phơn phớt, tạo cho thần Zeus một sức sống mănh liệt. Nửa thân dưới của tượng phủ một "tấm vải" bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ dưới thân áo những con vật, thân áo là những ngôi sao và những đoá hoa xinh xắn.[1] Những khách tham quan như vị tướng La Mă Aemilius Paulus, người đă giành chiến thắng trước Macedonia, cũng phải cung kính trước vẻ uy nghiêm thần thánh và sự tráng lệ của bức tượng thần mà Phidias đă tạo ra.[cần dẫn nguồn]
Nguyên nhân phá huỷ bức tượng vẫn là vấn đề c̣n tranh căi: một số học giả cho rằng bức tượng cùng ngôi đền đă bị hư hỏng vào thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên, những người khác cho rằng bức tượng đă được mang tới Constantinople, và bị phá huỷ ở đó trong vụ đại hoả hoạn Lauseion (Schobel 1965). Theo Lucian xứ Samosata vào cuối thế kỷ thứ hai, "họ đă đặt những bàn tay lên thân h́nh người tại Olympia, vị chúa Tối cao của tôi, và người đă không có năng lượng để đánh thức những chú chó hay gọi những người xung quanh; chắc chắn rằng nếu vậy họ đă tới để cứu giúp và bắt giữ những kẻ đó trước khi chúng kịp chuyển những đồ ăn cắp đi."[2]
Có lẽ khám phá lớn nhất về di tích c̣n sót lại của kỳ quan thế giới này diễn ra năm 1958 với cuộc khai quật khu xưởng nơi chế tạo bức tượng. Điều này khiến một số nhà sử học có thể tái tạo kỹ thuật đă được sử dụng trước kia.
4. Đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) được dựng lên để tôn vinh nữ thần săn bắn và thiên nhiên hoang dă của Hy Lạp.
Đền Artemis là đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, c̣n được gọi là đền thờ Diana được xây dựng từ đá cẩm thạch bởi kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, dài 377 feet (115 m), rộng 180 feet (55 m, bao gồm 127 cột đá, ở thành phố Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), bờ biển Êgiê (Aegean Sea).
Nữ thần săn bắn Artemis là con của thần Zeus và thần Lêto (Lesto), em của thần ánh sáng-thi ca Apollon, được h́nh dung là một trinh nữ trong trắng cầm cung tên, thường đi cùng một con hươu hoặc một con chó.
Đền được bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá tŕnh xây dựng lại và mở rộng qua nhiều thời kỳ, lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa thiêu hủy vào đêm Alexander Đại Đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi đền cũ. Năm 262, người Goth đă đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác của ngôi đền thứ hai c̣n tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn c̣n lưu một số di tích thuộc ngôi đền thứ hai.
Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Á đă kết hợp tạo dựng nên một công tŕnh kiến trúc thần thánh và nguy nga. Đền thờ nữ thần Artemiss nằm trong số Bảy kỳ quan bởi tính tráng lệ về kiến trúc và kích thước khác thường. Đền thờ nữ thần Artemis không những là một trong số những ngôi đền Hy Lạp đồ sộ nhất, mà c̣n là một trong những công tŕnh được xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch lâu đời nhất. Đền được xây dựng ở địa điểm gồm các ngôi đền xây dựng đầu tiên vào khoảng năm 550 TCN với sự giúp đỡ tài chính của Croesus, một vị vua nổi tiếng giàu có thuộc vương quốc Lydia lân cận. Thế nhưng, vào năm 356 TCN, công tŕnh kiến trúc nguy nga này bị một kẻ mắc chứng cuồng nhằm muốn tên tuổi của ḿnh bất tử, đă phóng hỏa thiêu huỷ. Trong ṿng vài thập niên sau, người ta dựng tại địa điểm cũ ngôi đền mới, theo h́nh dáng của ngôi đền ban đầu. Ngôi đền mới trùng tu vẫn c̣n tồn tại dưới thời kỳ La Mă, khi ấy nhà văn La Mă đă ngạc nhiên trước kích thước và việc xây dựng ngôi đền. Ba cửa sổ lớn được trổ thẳng xuyên qua mái, cửa sổ ở giữa tạo ra một khoang hở giúp những người viếng đền có thể nh́n thấy vị nữ thần Artemis trên bàn thờ. Chính bàn thờ cũng là một công tŕnh có dăy cột thật tráng lệ ở bên phía, đặt ở phía trước ngôi đền. Đền nguyên thuỷ có kích thước 55 x 110 m tính ở bậc thang phía trên, ba phía là một dăy cột gồm hai hàng bao quanh, một chiếc cổng có mái che với hàng cột sâu phía trước lối ra vào. Khi ngôi đền được trùng tu vào thế kỷ 4 TCN, th́ nền móng của một số kiến trúc thượng tầng của ngôi đền nguyên thuỷ được tận dụng, nhưng ngày nay chỉ cao khỏi mặt đất khoảng 2m, tấm móng được một hàng cầu thang bao quanh. Ba mươi sáu cột nằm ở phía trước lối ra vào đều trang trí bằng các tác phẩm chạm nổi, một đặc điểm khác thường đối với các ngôi đền Hy Lạp, chính bản thân các cột đều chạm trổ từ 40 đến 48 đường rănh máng khoét sâu ở thân cột. Quanh ngôi đền phía trên các cây cột, có một trụ ngạch, trong khi các máng xối đều chạm h́nh đầu sư tử. Với khoảng cách giữa các cột không có trụ đỡ thường vượt quá 6,5 m, bao gồm các tảng đá dài đến 8,75 m, công tŕnh đă buộc những người thợ xây thể hiện khả năng cao nhất của ḿnh.
5. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic.
Lăng mộ Maussollos, hay Lăng Halicarnassus là một lăng mộ được xây dựng giai đoạn 353 TCB–350 TCN tại Halicarnassus (Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay), dành cho Mausolus (Hy Lạp Μαύσωλος Maúsōlos), vị vương hầu một tỉnh thời Đế chế Ba Tư, và Artemisia, vợ và chị ông. Nó được hai kiến trúc sư Hy Lạp Satyrus và Pythius thiết kế. Công tŕnh cao gần 45 mét (135 feet) và mỗi mặt đều được trang trí bởi một trong bốn nhà điêu khắc nổi tiếng Hy Lạp: Bryaxis, Leochares, Scopas và Timotheus. Khi hoàn thành công tŕnh được coi là một thành công lớn về nghệ thuật tới mức Antipater đă coi nó là một trong bảy kỳ quan thế giới. Từ lăng (mausoleum) từ đó được sử dụng chung với nghĩa là một ngôi mộ lớn, dù nguyên nghĩa "Mausol–eum" là "để vinh danh Mausol".
Cuộc đời của Maussollos và Artemisia
Năm 377 TCN, Halicarnassus là thủ đô của một vương quốc nhỏ dọc theo bờ biển Địa trung Hải của Anatolia. Trong năm này, vị vua của vùng đất, Hecatomnus xứ Mylasa, qua đời để lại quyền cai quản vương quốc cho con trai là Mausolus. Hecatomnus, một vị phó vương của người Ba Tư, có nhiều tham vọng và đă chiếm quyền kiểm soát nhiều thành phố cũng như các tỉnh xung quanh. Ngoài Mausolus và Artemisia ông c̣n có nhiều con khác: Ada (được chấp nhận là mẹ của Alexander Đại Đế), Idrieus, và Pixodarus. Trong thời ḿnh, Mausolus đă mở rộng lănh thổ tới mức cuối cùng nó bao gồm hầu hết phía tây nam Tiểu Á. Maussollos, với hoàng hậu và chị ḿnh là Artemisia đă cai trị Halicarnassus và những lănh thổ xung quanh trong 24 năm. Dù có nguồn gốc địa phương, Maussollos nói tiếng Hy Lạp và rất ngưỡng mộ phong cách sống cũng như cách thức tổ chức chính phủ Hy Lạp. Ông đă thành lập nhiều thành phố theo kiểu Hy Lạp dọc theo bờ biển và khuyến khích các truyền thống dân chủ Hy Lạp.
Maussollos đă quyết định xây dựng một thủ đô mới, một thành phố với hệ thống pḥng thủ mạnh mẽ và tráng lệ. Ông đă chọn thị trấn Halicarnassus. Nếu chiến thuyền của Mausolus phong tỏa một con kênh nhỏ, họ có thể buộc các tàu chiến địch không thể vào thành phố. Ông đă bắt đầu biến Halicarnassus trở thành thủ đô cho một vị hoàng tử chiến binh. Những người thợ của ông đào sâu cảng của thành phố và sử dụng số cát lấy lên được làm vũ khí bảo vệ phía trước kênh. Trên mặt đất, họ bố trí các quảng trường có lát đá, các đường phố, và các ngôi nhà cho người dân, phía bên kia cảng, họ xây một pháo đài-lâu đài lớn cho Mausolus, nó có vị trí tối ưu quan sát được toàn bộ mặt biển và những quả đồi sâu trong đất liền - những nơi kẻ địch dùng phát động tấn công. Những người thợ đă xây dựng những bức tường và các tháp canh ở phía trong đất liền và xây một nhà hát kiểu Hy Lạp và một đền thờ Ares, vị thần chiến tranh Hy Lạp. Mausolus và Artemisia đă chi phần lớn số thuế thu được để trang hoàng thành phố. Họ dựng những bức tượng, những đền, những ṭa nhà bằng đá mable trắng. Ở trung tâm thành phố, Mausolus dự định xây mộ cho ông sau khi qua đời. Đây sẽ là nơi thể hiện sự giàu có của ông và nữ hoàng cho người đời sau. Sau đó Mausolus qua đời năm 353 BC để lại Artemisia với trái tim tan vỡ. (Theo phong tục tại Caria các vị vua cai trị sẽ lấy chị/em gái của chính ḿnh. Một lư do của những cuộc hôn nhân đó là để giữ vững sự giàu có và quyền lực của gia đ́nh.) Như một cống vật dành cho ông, bà quyết định xây dựng một lăng mộ tráng lệ nhất từng có trên thế giới. Nó trở thành một công tŕnh nổi tiếng đến mức tên của Mausolus ngày nay đă gắn liền với mọi lăng mộ nguy nga trong thế giới hiện đại với từ mausoleum (lăng mộ - tiếng Anh). Công tŕnh cũng đẹp đẽ và độc đáo tới mức nó đă trở thành một trong Bảy kỷ quan Thế giới Cổ đại. Ngay sau khi việc xây dựng được tiến hành, Artemisia gặp rắc rối. Rhodes, một ḥn đảo trên biển Aegean giữa Hy Lạp và Tiểu Á, nơi từng bị Mausolus chinh phục. Khi nghe được về cái chết của ông đă nổi loạn và gửi một hạm đội tới chiếm thành phố Halicarnassus. Biết rằng hạm đội của Rhodes đang trên đường tới, Artemisa đă xây dựng hạm đội của riêng ḿnh tại một vị trí bí mật ở phía cực đông cảng thành phố. Sau khi quân lính từ hạm đội của Rhodes lên bờ tấn công, hạm đội của Artemisia đă tiến hành một cuộc hành quân bất ngờ, chiếm hạm đội của Rhodes và kéo chúng ra ngoài biển. Artemisia cho quân sang chiếm các tàu địch và đi thẳng sang Rhodes. Nghĩ rằng các con tàu của ḿnh đang quay lại cùng với chiến thắng, người Rhodes không pḥng bị và thành phố nhanh chóng bị chiếm giữ, cuộc nổi loạn bị dẹp yên. Artemisa chỉ sống thêm hai năm sau khi chồng bà qua đời. V́ thế, các b́nh đựng tro hỏa táng của họ được đặt trong một lăng mộ c̣n chưa hoàn thành. Theo nghi lễ tang, thân xác của rất nhiều loài động vật được đặt trên các bậc cầu thang dẫn vào mộ, sau đó các bậc cầu thang được đổ đầy đá và gạch, hàn kín lối vào. Theo nhà sử học Pliny, những người thợ thủ công đă quyết định ở lại và hoàn thành nốt công việc sau khi vua và hoàng hậu qua đời "cần nhớ rằng đó từng là một đài kỉ niệm cho danh tiếng của chính họ và của nghệ thuật điêu khắc."
Quá tŕnh xây dựng Mausoleum
Artemisia đă quyết định rằng bà sẽ không tiếc một chi phí nào cho việc xây dựng lăng mộ. Bà đă gửi những sứ đoàn tới Hy Lạp để t́m kiếm những nghệ sĩ tài danh nhất thời ấy. Trong số họ có Scopas, người đă giám sát công việc sửa chữa Đền Artemis tại Ephesus. Những nhà điêu khắc nổi tiếng khác như Bryaxis, Leochares và Timotheus cũng đă tham gia vào công tŕnh cùng hàng trăm thợ thủ công tài năng khác.
Lăng mộ được dựng lên trên một quả đồi nh́n xuống thành phố. Toàn bộ cấu trúc nằm trong một sân kín. Ở giữa sân là một bục đá, lăng mộ được xây trên bục đá này. Một cầu thang với những con sư tử đá ở hai bên dẫn tới đỉnh bục đá đó. Dọc bức tường ngoài của nó là nhiều bức tượng thể hiện các vị thần cả nam và nữ. Mỗi góc có các bức tượng chiến binh bằng đá, đang ngồi trên ḿnh ngựa canh gác cho ngôi mộ.
Tại trung tâm của bục là ngôi mộ. Được làm phần lớn bằng đá mable, công tŕnh mọc lên với h́nh dáng một khối vuông, thon nhọn bên trên, phần thon này chiếm khoảng một phần ba chiều cao của lăng mộ (45 mét (135-foot). Phần này được trang trí bằng các bức điêu khắc thể hiện các cảnh hoạt động trong lịch sử/thần thoại Hy Lạp. Một phần thể hiện trận đánh của người Centaurs với người Lapiths. Một phần khác thể hiện những người Hy Lạp đang chiến đấu với người Amazons, một bộ tộc của những chiến binh nữ.
Phần chóp này của lăng mộ được đỡ bởi ba sáu cột mỏng, chín cột mỗi mặt, với chiều cao bằng một phần ba chiều cao chính. Ở giữa mỗi hai cột là một bức tượng khác. Đằng sau các cột là một khối chắc đỡ trọng lượng to lớn của mái lăng mộ.
Mái, chiếm đa số trọng lượng phần này, được xây dựng theo h́nh thức kim tự tháp bậc. Trên đỉnh mái là một cỗ xe bốn ngựa: bốn chú ngựa lớn kéo một chiếc xe trong đó có h́nh Mausolus và Artemisia.
6. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên tại một cảng gần đảo Địa Trung Hải có tên tượng Rhodes
Trong thần thoại Hy Lạp, Mặt Trời được nhân cách hóa thành Helios (tiếng Hy Lạp: Ἥλιος / ἥλιος). Homer gọi Helios là một Titan hay Hyperion.
Helios là con của hai Titan: Hyperion và Theia và là anh của nữ thần Mặt Trăng Selene và nữ thần b́nh minh Eos.
Truyền thuyết về thần Helios
Công việc hằng ngày
Helios được miêu tả là một vị thần đẹp trai với vầng hào quang của tia nắng Mặt Trời trên đầu, cưỡi một chiếc xe ngựa đi trên bầu trời. Homer kể rằng nó được kéo bằng những con ḅ mặt trời; sau đó Pindar cho rằng nó được kéo bằng con ngựa có mào lửa. Sau đó, những con ngựa được đặt bằng những cái tên: Pyrois, Aeos, Aethon và Phlegon
Những người t́nh và con cái của Helios
[sửa] Helios và cậu bé Phaeton
Phaeton là con trai của Helios và Clineter,cậu c̣n có 3 người chị gái nữa.Một hôm,có người bảo với cậu:
-Tôi không tin cậu là con của thần Helios vĩ đại. Nhất định là mẹ cậu nói đùa,v́ cậu không có chứng cứ.
Phaeton khóc lóc kể với mẹ.Mẹ cậu chỉ đường đi.Đến nơi,cậu được một tiên nữ dẫn đến.Cậu hỏi có đúng Helios là cha cậu không.Helios bỏ mũ nói:
-Nhất định ta là cha của con rồi,con hăy ước một điều để chứng minh.Helios này sẵn sàng lấy sông Stích ra bảo đảm.
Tuy nhiên cậu bé lại xin cưỡi cỗ xe mặt trời mà cha hay điều khiển.Helios can:
-Đó là điều ta phải nghiêm cấm.Con không đủ sức để cưỡi.Ngay cả thần Zeus(Dớt) tối cao cũng không điều khiển được.Mà mẹ con không phải là thần nên con cũng chỉ là người trần.Con hăy thay đổi điều ước đi.
Nhưng chú bé không nghe lời cha.Thần buộc phải chấp nhận v́ đă thề với sông Stich rồi.Mà nếu chối thề sẽ bị mất ăn,mất mặc,mất không khí trong 10 năm.
Khi đấy sắp đến b́nh minh.Phaeton được cha bôi loại mỡ chống ánh nắng.Helios dặn rất kĩ càng.Rồi lại muốn con rút lại điều ước.Nhưng cậu không nghe mà quyết định lên đường.
Nhưng khi điều khiển,cậu đâu có đủ sức,tay cậu yếu,nên điều khiển như đang thả dông cho chúng vậy.Lũ ngựa lúc bay lên lúc bay xuống.Khi xuống đă biến làng mạc ở châu Phi thành hoang mạc,cư dân thành người da đen.Xứ biển của Poseidon và xứ địa ngục của Hades đều bị ảnh hưởng.Đất mẹ Gaia gào thét đ̣i thần Zeus phóng xét dập lửa.Các vị thần đă nghe thấy.Lập tức Zeus phóng sét dập lửa,sét đánh vào Phaeton,cậu ngă xuống biển và đến thế giới của Hades(nghĩa là cậu đă chết),ba cô con gái của thần Alas nhặt được xác và an táng cậu bé.
Biết chuyện,mẹ cậu hốt hoảng tim xác con,khi biết cậu đă được an táng,bà chỉ biết ôm ngôi mộ,ba chị gái cũng đến.Họ khóc cho cái chết của em và biến thành cây bạch dương,nước mắt th́ biến thành hổ phách.
C̣n Helios,thần là người đau xót nhất,thần đóng chặt cửa,nằm,không ăn uống, không giao tiếp với ai.Để mặc cho ngọn lửa c̣n lại chiếu sáng đến lúc hoàng hôn. Đó là lần duy nhất thần không đi chiếu sáng.
Ḱ quan của thế giới cổ đại về thần Helios
"Colossus of Rhodes" - tượng khổng lồ ở đảo Rhodes có kích cỡ khoảng 110 feet = 33m (cao tương đương với một ṭa nhà hiện đại với 10 tầng), đă tồn tại cách đây 2000 năm.Năm 305 trước CN, những người thuộc phe Antigonids của Macedonia bao vây Rhodes t́m mọi cách phá vỡ liên minh Rhodes - Ai Cập.Nhưng họ đă không thể xâm nhập vào thành phố.Hiệp ước ḥa b́nh đạt được vào năm 304 trước CN, những người phe Antigonids mở ṿng vây rút lui và để lại nhiều trang thiết bị quân sự dồi dào của họ.Nhằm tổ chức kỷ niệm ăn mừng chiến thắng và thống nhất, người dân Rhodes đă bán vũ khí đó, dùng tiền dựng lên bức tượng khổng lồ h́nh vị thần mắt trời - Helios.Bức tượng khổng lồ đứng kiêu hănh uy nghiêm ngay cửa ngơ vào cảng, sải chân dang rộng và tàu bè có thể đi lại bên dưới.Mỗi sáng sớm, mặt trời chiếu vào làm pho tượng đồng ánh lên rạng rỡ một biểu tượng tự do và thống nhất.
7. Kim tự tháp Giza, một cấu bằng đá khổng lồ gần thành phố cổ Memphis, nơi chôn pharaoh Ai Cập Khufu.
Kim tự tháp Giza là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ đại c̣n tồn tại đến hôm nay. Kỳ quan biến mất sau cùng là hải đăng Alexandria.
Phía bờ tây sông Nile, sừng sững những Kim tự tháp hùng vĩ. H́nh dạng độc đáo với nền móng vững chắc tiếp đất và chóp nhọn chọc trời là minh họa cho một sự kết hợp giữa tŕnh độ kỹ thuật cùng sự cam kết tâm linh của người Ai cập cổ đại.
Thời hoàng kim về xây dựng kiến thiết của Ai cập kéo dài trong suốt Giai đoạn thứ 3, từ năm 2868 đến 2613 trước CN. Kim tự tháp là nơi có hầm mộ chôn cất các pharaoh [3] và các quan chức cao cấp của triều đ́nh. Nền móng của nền quân chủ Ai cập dựa trên tính bất tử của các pharaoh, do vậy phải xác nhận sự tồn tại của "kiếp sau". Kim tự tháp vừa để tôn vinh các pharaoh, vừa là nơi các vị này chờ đợi trước khi được gia nhập thế giới khác. Người Ai cập cổ đă đạt tới tŕnh độ hoàn thiện trong kỹ thuật ướp xác để ǵn giữ cơ thể sau khi chết, và thường trữ đầy trong các Kim tự tháp những tiện nghi sinh hoạt cung đ́nh mà các pharaoh tỏ ư nguyện muốn đem theo ḿnh.
Kim tự tháp vĩ đại nhất, cũng là kiến trúc duy nhất c̣n tồn tại ngày nay trong số 7 kỳ quan cổ đại, là Kim tự tháp Giza, xây dựng trong thời kỳ cai trị của Cheops, tên Hy lạp của pharaoh Khufu (2545-2520 trước CN). Tại thời điểm được xây dựng, Kim tự tháp này cao cỡ 482 foot [4], trải rộng một diện tích chừng 13 hec-ta và nặng ít nhất 6,5 tỉ tấn. Hoàng đế Pháp Napoleon từng tính toán rằng lượng đá xây nên Kim tự tháp này, gồm trên 2.300.000 khối lớn, có thể tạo nên một bức tường dày 1 foot [5] bao quanh nước Pháp với độ cao 10 foot. Tầm vóc khổng lồ của Kim tự tháp Giza lại cũng tương xứng với thiết kế chính xác đến kỳ lạ. Mỗi cạnh của nền tháp dài 776 foot [6], chênh lệch nhau không quá 7,9 inches [7]; các khối đá được xếp chồng khít tới mức không thể nhét xen kẽ giữa chúng dù chỉ một tờ giấy mỏng. Các cạnh tháp chạy hầu như hoàn toàn song song từ bắc tới nam, đông qua tây, sai lệch chừng 4 độ không hơn. Độ nghiêng của các mặt bên Kim tự tháp vào khoảng 51,5 độ. Chiều cao của mặt nghiêng là 195m. Bốn mặt của Kim tự tháp nh́n về 4 hướng: chính bắc, chính nam, chính đông và chính tây. Kim tự tháp của vua Chephren nằm phía sau kim tự tháp của Khufu và phía trước là kim tự tháp của Mycerinus. Ba kim tự tháp nhỏ hơn ở phía trước được xây cho ba người vợ của vua Mycerinus. Những kim tự tháp này quay mặt về bốn hướng chính. Tại đây c̣n có cả bức tượng khổng lồ của nhân sư Sphinx [8] nổi tiếng.
Vào thế kỷ 19, khi giới khảo cổ học phương Tây tái phát hiện các Kim tự tháp, sức hấp dẫn của chúng đă làm nảy sinh nhiều trường phái ngụy khoa học. Một phái gọi là "Kim tự tháp học" từng miệt mài làm việc ḥng t́m ra "đơn vị Kim tự tháp", một đơn vị đo lường "chuẩn" kỳ diệu nào đó có thể cho phép người Ai Cập cổ đại xây dựng nên các công tŕnh với sự chính xác siêu phàm. Các giá trị đặc biệt như số Pi, khối lượng và chu vi Trái đất, hoặc khoảng cách từ Trái đất tới Mặt trời đă được đề xuất như những ứng viên cho đơn vị này. Một phái khác th́ đưa ra giả thuyết các Kim tự tháp đóng vai tṛ của những văn bản bằng đá, ghi chép dưới dạng mă hóa toàn bộ lịch sử trước đó của thế giới và con người. Các nhà Kim tự tháp học thậm chí c̣n dài ḍng phóng đại giải thích quy tŕnh xây dựng các công tŕnh vĩ đại này. Có một giả thiết như vậy đă được phổ biến khá rộng răi trong thế kỷ 20, cho rằng các tảng đá khổng lồ đă được chuyên chở tới Ai cập bởi những sinh vật sống bên ngoài Trái đất và thả xuống vị trí của Kim tự tháp từ các UFO [9].
Sự thật đằng sau việc kiến thiết các Kim tự tháp không hề kém phi thường, có chăng nó chỉ không mang tính chất hoang đường như các giả thuyết trên. Chu tŕnh xây dựng bắt đầu với việc đẽo các tảng đá được mang về từ các mỏ khai thác cách đó chừng 600 dặm Anh [10], tại Aswan. Đa số các nhà sử học cho rằng các tảng đá này được đặt lên bè thả trôi xuôi sông Nil trong mùa lũ, mặc dù không có bằng chứng khảo cổ nào của các bè gỗ lớn đủ để chuyên chở các khối đá có kích cỡ khổng lồ ấy.
Đá được chuyển về chân công tŕnh, nơi các thợ xây phải làm ra một nền móng phẳng theo cách dẫn nước ngập vào băi, tạo nên một hệ thống kênh rạch, sau đó đào sâu cho tới khi mực nước khắp nơi cân bằng. Một ṿng bao bên ngoài mỗi khối đá được thiết lập theo ngấn nước, rồi đá được cắt tới mức độ thích hợp, đôi khi một vài tảng đá cực lớn được giữ nguyên.
Một con đường lề bằng đá được làm bên bờ sông Nil nhằm phục vụ cho quá tŕnh bốc dỡ. Các khối đá được kéo trên các xe trượt trụ trên các trục lăn từ vị trí cách xa chừng nửa dặm tới công trường. Tại đây, đội thợ nề và thợ đẽo đá sẽ bào nhẵn bề mặt đá, chuẩn bị cho việc xây dựng. Khi đă sẵn sàng, những khối đá khổng lồ được dịch chuyển vào vị trí, một quá tŕnh gây nhiều tranh căi bởi thực tế là ṿng xe cuốn và dây tời kéo phải 800 năm sau đó mới xuất hiện tại Ai cập. Một vài học giả cho rằng người Ai Cập cổ đă chế ra các bậc cầu thang nâng cấp dài theo độ cao dần của công tŕnh với một độ nghiêng cố định; số khác gợi ư về một cầu thang xoắn dài theo ṭa tháp. Đá được đẩy tới đầu cầu thang, rồi đặt vào trên nền vữa lỏng, để yên tĩnh cho tới khi khô. Đường cầu thang này được tháo dỡ dần sau khi đỉnh tháp đă được dựng xong, và những người thợ nề có trách nhiệm mài nhẵn bề mặt đá trên đường đi xuống.
Lượng nhân công đă tham gia xây dựng nên ṭa tháp này được nhà sử học Hy Lạp Herodotus dự đoán là 100.000 người, luân phiên thay thế sau mỗi giai đoạn 3 tháng, trong suốt 20 năm, dù đây có lẽ là một con tính hơi bị cường điệu. Một trại lính cổ đại phát hiện được ở gần đó có sức chứa 4000 người, và dường như có tới vài trại lính ở xung quanh ṭa tháp. Nhân công xây dựng không phải là nô lệ, công việc không bị ép buộc lao dịch, gây ra sự nghi ngờ với các truyền thuyết từ Kinh thánh về các quản đốc hà khắc dă man. Một văn bản khắc trên tường hầm mộ pharaoh cho biết rằng ông ta chưa bao giờ đánh một công nhân đủ mạnh để làm người đó ngă.
P/S:B
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat