Loài ruồi thật lạ. Nó hầu như có mặt ở khắp nơi. Trong nhà, ngoài đường, trong chuồng lợn, ngoài băi rác, phía nhà vệ sinh, thậm chí ở trong đền chùa, nơi tế lễ, ở quê hay ở thành phố...
Có những con ruồi hiện thực ở ngoài đời th́ cũng có những con ruồi ảo vo ve trên net. Tuy có khác nhau, nhưng chung quy lại vẫn là... Ruồi! Và tính cách vẫn là tính cách của loài ruồi!
Loài ruồi vô tư bay đậu từ chỗ này sang chỗ khác. Đậu vào băi rác, rồi bay lên bàn thờ. Tḥ cái chân thối vào mỗi chỗ một ít. Rất tự nhiên. Tự nhiên như... ruồi!
Đối với ruồi. Th́ không có sự khác biệt giữa thơm và thối. Khi đói th́ mọi thứ đều thích như nhau. Khi đă thích th́ mọi thứ đều chán như nhau. Nhưng nguy hiểm nhất là lúc ruồi đă thích rồi. Lúc đó hắn bay, hắn đậu, hắn chê cái này, khen cái kia... chê chán, khen chán th́ lại ngồi chép miệng rằng tại sao có những món ăn dở thế. Những món ăn ngon lành béo bổ đi đâu hết rồi. Rồi lại than thời buổi bây giờ suy đồi, những tháng ngày tươi đẹp kia sao không thấy quay trở lại, thế thái nhân t́nh đảo lộn cả... vân vân và vân vân.
Đặc điểm của ruồi là chỉ ăn theo người khác chứ không bao giờ tự tạo được cho ḿnh một món ăn ngon. Nếu có (chưa nói là ngon) chắc gói gọn chưa đầy 10 chữ.
Loài ruồi không có chính kiến. Luôn phát biểu theo số đông. Câu cửa miệng của ruồi khi thích là “đồng ư với...”, “tôi hoàn toàn... với...”, “bạn nói rất phải...”... và khi ruồi tung hô th́ sẽ xuất hiện một số mỹ từ hoàn toàn mới so với từ điển, mà nếu nhân vật được tung hô kia có mặt ở đó chắc cũng đỏ mặt lên v́ ngượng... C̣n khi ruồi chê th́ thật không thể nào tả nổi. Lúc ấy cao lương mỹ vị th́ cũng như cái xác chuột chết mà thôi.
Một ngày nào đó, gặp một sự cố ǵ đó, loài ruồi chết đi. Lúc đó sẽ xuất hiện một bản sao mới, một cái tên mới. Ấy là Ḍi!