da1uhate
member
ID 39468
04/05/2008
|
T́m hiểu về Tây Tạng
Tây Tạng (tiếng Tây Tạng: བོད་, Bod hay pö theo cách nói vùng Lhasa; chữ Hoa: 西藏) nguyên là một lănh thổ và là một quốc gia độc lập ở Trung Á và là nơi cư trú của người Tây Tạng. Với độ cao trung b́nh vào khoảng 4.900 m, vùng đất này thường được gọi là 'Nóc nhà của thế giới'. Tất cả hay hầu hết Tây Tạng (tùy theo cách định nghĩa) ngày nay chịu sự kiểm soát của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH).
Khi chính quyền Tây Tạng lưu vong nhắc đến Tây Tạng có nghĩa là họ nói đến một lănh thổ rộng lớn đă tạo nên nền văn hóa Tây Tạng trong nhiều thế kỷ, bao gồm các địa phận truyền thống là Amdo, Kham (hay Khams), và Ü-Tsang (Dbus-gtsang), nhưng không kể đến các vùng bên ngoài CHNDTH như là Arunachal Pradesh, Sikkim, Bhutan và Ladakh mà các vùng này cũng h́nh thành một phần của không gian văn hóa Tây Tạng.
Khi CHNDTH nói về Tây Tạng, có nghĩa là họ nói về Khu tự trị Tây Tạng (viết tắt là TTTT), đơn vị tương đương với một tỉnh mà theo công nhận của CHNDTH về lănh thổ sẽ bao gồm Arunachal Pradesh. Một số người Trung Hoa có thể cũng thêm vào vùng đó là Sikkim, Bhutan, and Ladakh. Thực tế, TTTT chỉ có các vùng nguyên là tỉnh Ü-Tsang và miền Tây của tỉnh Kham, trong khi Amdo và miền Đông của Kham đă được sát nhập vào các tỉnh hiện nay của Trung Quốc là Thanh Hải, Cam Túc, Vân Nam và Tứ Xuyên.
Thủ đô truyền thống của Tây Tạng và của TTTT là Lhasa. Những thành phố của Tây Tạng rộng lớn bao gồm Shigatse (Gzhis-ka-rtse), Gyantse (Rgyang-rtse), Chamdo (Chab-mdo), Nagchu (Nag-chu), Nyingchi (Nying-khri), Nedong (Sne-gdong), Dartsendo (Dar-btsen-mdo), Jyekundo (Skyes-rgu-mdo) hay Yushu (Yul-shul), Golmud (Na-gor-mo), Barkam ('Bar-khams), Gartse (Dkar-mdzes), Lhatse (Lhar-tse), Machen (Rma-chen), Pelbar (Dpal-'bar), Sakya (Sa-skya) và Tingri (Ding-ri).
Tên gọi
Theo tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư chữ Tây Tạng nghĩa là "các độ cao". (Behr, W. Oriens 34 (1994): 557-564.)
Người Tây Tạng gọi quê hương của họ là Bod (བོད་), phát âm là pö theo cách nói địa phương ở Lhasa.
Người Trung Hoa gọi Tây Tạng là 西藏 (Xīzàng) và từ này được dùng từ thế kỷ 18. Kí tự 藏 (zàng) cũng được dùng để miêu tả thuộc tính Tây Tạng như là tiếng Tạng (藏文, zàng wén) và người Tạng (藏族, zàng zú). Hai kí tự Xīzàng th́ có nghĩa là "nhà chứa miền Tây", theo nhiều người Tạng là một lối hạ nhục. Mặc dù vậy chữ có tính cách "xem thường", zàng cũng có nghĩa là "kho báu" hay "kinh Phật". Có một lối giải thích khác là người Trung Hoa khi phiên âm các tên không phải là tiếng Trung Hoa th́ không nhất thiết mang ư nghĩa của chữ mà nó được dùng.
Địa vị pháp lư
Từ năm 1959, chính quyền Tây Tạng cũ, đứng đầu là Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, vẫn duy tŕ một chính phủ lưu vong của Tây Tạng ở Dharamsala miền bắc Ấn Độ. Chính phủ này xác nhận chủ quyền vùng đất Tây Tạng với biên giới được định nghĩa như là toàn bộ những ǵ thuộc về khái niệm "Tây Tạng lịch sử", mặc dù chính phủ này chỉ kiểm soát được khoảng một nửa của vùng đất này trước năm 1959. Chính phủ lưu vong Tây Tạng xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập riêng biệt trong các giai đoạn:
* Trước khi bị chiếm bởi đế quốc Mông Cổ (nhà Nguyên) 700 năm trước.
* Trong giai đoạn kể từ khi đế chế Mông Cổ sụp đổ cho đến khi bị chinh phục bởi đế chế Măn Châu (triều đại nhà Thanh).
* Trong giai đọan kể từ khi đế chế Măn Châu sụp đổ năm 1912 đến lúc bị sáp nhập vào Trung Quốc năm 1951.
Hơn nữa, ngay trong các giai đoạn bị đô hộ bởi các đế chế Mông Cổ và Măn Châu, Tây Tạng vẫn là vùng tự quản rộng lớn. Như vậy, chính quyền này xem sự cai trị của CHNDTH như là một sự đô hộ và bất hợp pháp bởi động cơ thúc đẩy là các tài nguyên tự nhiên và giá trị chiến lược của Tây Tạng và vi phạm thô bạo cả địa vị lịch sử của Tây Tạng như là một nước độc lập lẫn vi phạm quyền tự quyết của người Tạng. Chính phủ này c̣n chỉ ra sự chuyên quyền và chính sách chia-để-trị đặt ra bởi CHNDTH, cũng như là chính sách đồng hóa của CHNDTH. Theo họ, đây là một chủ trương điển h́nh của chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa bẻ cong và tiêu hủy các giá trị đạo đức, văn hóa và đồng nhất của Tây Tạng nhằm mục đích gắn chặt đất nước này như là một phần không thể chia cắt của Trung Hoa.
Mặt khác, CHNDTH xác nhận quyền cai trị Tây Tạng là hợp pháp, bởi cho rằng Tây Tạng đă là phần không thể chia cắt của Trung Hoa từ thời Mông Cổ (nhà Nguyên) 700 năm trước, tương tự các quốc gia khác như là Vương quốc Đại Lư và Đế chế Tây Hạ cũng đă sáp nhập vào Đế chế Mông Cổ ở thời điểm đó và vẫn c̣n thuộc về Trung Hoa cho đến ngày nay. CHNDTH khẳng định rằng tất cả các kết quả cai trị của các chính quyền người Hoa về sau cho đến thời CHNDTH, tiếp tục thành công. Từ thời nhà Nguyên trong việc thực thi pháp trị lănh thổ và áp đặt một số thực quyền lên Tây Tạng, bất kể các thời kỳ tự trị như là từ 1912 đến 1951. Chẳng hạn, các vị đại biểu của Tây Tạng trong năm 1947 ở Nam Kinh đă tham gia trong việc soạn dự thảo hiến pháp Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa và việc không có nước nào công nhận ngoại giao với Tây Tạng từ năm 1912 tới 1951. Ngoài ra, CHNDTH c̣n cho rằng tất cả các hành động nhằm chấm dứt chủ quyền của người Trung Hoa ở Tây Tạng, bắt đầu từ các cố gắng của Vương quốc Anh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 cho đến Chính phủ lưu vong Tây Tạng hiện nay, là một chiến dịch lâu dài được xúi bẩy bởi chủ nghĩa đế quốc xấu xa âm mưu phá hoại sự toàn vẹn lănh thổ của người Trung Hoa, nhằm làm yếu vị thế chính trị của Trung Quốc trên thế giới. CHNDTH cũng lưu ư (hoặc vạch ra) các chính sách chuyên chế và chính trị thần quyền của chính phủ Tây Tạng trước năm 1959, cũng như là việc từ bỏ Arunachal Pradesh và chỉ ra sự liên kết của chính phủ này với Ấn Độ là quốc gia kiểm soát Arunachal Pradesh. Với những điều nêu trên, CHNDTH cho rằng Chính phủ lưu vong Tây Tạng không có tư cách pháp lư về mặt tinh thần để quản lư Tây Tạng.
Lịch Sử
Người ta biết rất ít về Tây Tạng trước thế kỷ 17, mặc dù tiếng Tạng liên hệ một cách chặt chẽ với các ngôn ngữ thuộc nhóm Tạng-Miến và cũng có liên hệ với tiếng Hán.
Theo truyền thuyết, vào thế kỷ 14, Mani Bka' 'bum, người Tạng ra đời từ sự hợp nhất của một con khỉ và một ḥn đá quỷ. Con khỉ là một kiếp đầu thai của Avalokiteśvara (tiếng Tạng là Spyan ras gzigs, phát âm như xen-re-zik), c̣n gọi là Quan Âm trong Phật giáo tại Đông Á, hay vị Bồ tát của ḷng từ bi. Ḥn đá quỉ là một kiếp của Bồ tát Tara (tiếng Tạng là 'Grol ma phát âm như là drol-ma).
Tây Tạng là một đế quốc hùng cường từ giữa thế kỷ 7 và thế kỷ 10. Đặc điểm của nó là có một dạng xă hội đặc biệt, trong đó đất được chia thành 3 kiểu làm chủ khác nhau là bất động sản của các gia đ́nh quí tộc, đất trống tự do và bất động sản của các tu viện, đặc biệt là trong các bộ phái Phật giáo. Sự phân chia này tăng lên sau sự suy yếu của các triều vua Tây Tạng trong thế kỷ 10. Dạng xă hội này đă tiếp tục cho tới thập niên 1950, lúc đó hơn 700.000 người làm nghề nông trong tổng số 1,25 triệu dân.
Trong thế kỷ 13 Tây Tạng đă bị sáp nhập vào Đế quốc Mông Cổ. Những người cầm quyền Mông Cổ đă chấp nhận cho phái Phật giáo Tây Tạng Shakya quyền lănh đạo tại đó vĩnh viễn. Theo sau đó là giai đoạn trung gian của các triều đại trong 300 năm. Mông Cổ một lần nữa xâm chiếm vào đầu thế kỷ 16 và tuyên bố ḍng dơi Phật c̣n lại là những Đạt Lai Lạt Ma sẽ là người nắm chính quyền chính thức.
Đầu thế kỷ 18 Trung Quốc thiết lập quyền để có các cố vấn chính quyền thường trú gọi là amban, ở Lhasa. Khi người Tạng nổi dậy chống lại Trung Quốc năm 1750 và giết amban, quân Trung Hoa đă tiến vào lănh thổ này và đặt lại một amban mới, nhưng hằng ngày chính quyền Tây Tạng vẫn tiếp tục quản lư quốc gia như trưóc.
Năm 1904, Anh gửi một lượng lớn quân đội người Ấn để chiếm Lhasa, buộc Tây Tạng phải mở cửa biên giới với British India. Hiệp ước 1906 với Trung Hoa lập lại các điều kiện biến Tây Tạng thành xứ bảo hộ thuộc về Đế quốc Anh.
Sau năm 1907, một hiệp ước mới giữa Đế quốc Anh, Trung Quốc và Nga công nhận quyền của Trung Hoa ở Tây Tạng. Trung Hoa thiết lập quyền lực lần đầu tiên vào năm 1910. Mặc dù vậy, điều này không tồn tại lâu v́ quân Trung Hoa phải rút về nước để chiến đấu trong cuộc cách mạng 1911, để lại cho vị Đạt Lai Lạt Ma lúc đó một cơ hội tái lập quyền kiểm soát. Năm 1913, Mông Cổ và Tây Tạng kư hiệp ước và ra tuyên bố chung công nhận lẫn nhau và độc lập với Trung Hoa.
Năm 1914 một hiệp ước được bàn thảo ở Ấn Độ với sự tham dự của đại diện Trung Hoa, Tây Tạng và Anh: Hiệp định Simla. Trong đó, quyền thống trị của Trung Hoa lên Tây Tạng và Khu tự trị Tây Tạng đều được công nhận, ngoài ra, biên giới điều đ́nh giữa Anh-Ấn và Tây Tạng đă rất có lợi cho Anh. Hiệp ước này đă được kí kết riêng lẻ giữa Anh và Tây Tạng. Mặc dù vậy, phía Trung Hoa đă từ chối kư kết v́ cho rằng nó đă nhượng bộ quá nhiều. Trung Hoa chưa bao giờ công nhận bản hiệp ước này và cũng như các ranh giới tạo ra bởi nó, do đó, tạo ra một cơ sở cho việc tranh căi giữa Ấn Độ và Trung Hoa ngày nay về vùng Arunachal Pradesh.
Hậu quả của sự bùng nổ Thế chiến I và cuộc nội chiến Trung Hoa là nguyên nhân làm cho các thế lực Tây phương và Trung Hoa mất đi sự chú ư đến Tây Tạng, do đó, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng lên nắm quyền mà không bị ngăn cản, phá rối. Trong thời gian này th́ Tây Tạng kiểm soát tất cả Ü-Tsang (Dbus-gtsang) và miền tây Kham (Khams) trùng hợp một cách ngẫu nhiên với các biên giới của vùng tự trị Tây Tạng ngày nay.
Cả Trung Hoa Dân Quốc lẫn Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc đều không chịu từ bỏ việc xác định chủ quyền lên Tây Tạng. Năm 1950, Quân đội Nhân dân giải phóng tiến vào Tây Tạng tiêu diệt quân đội non trẻ của Tây Tạng và phá hủy khoảng 6.000 chùa chiền. Năm 1951, Kế hoạch giải phóng hoà b́nh cho Tây Tạng, một hiệp ước được kư bởi sức ép của Trung Quốc lên các người đại diện của Đại Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma, đặt nền thống trị kết hợp bởi Trung Quốc và Tây Tạng.
Trong khi đó, vào năm 1956 miền Đông Kham và Amdo đă nổ ra các cuộc kháng chiến và cuộc chiến này đă lớn rộng ra ngoài vùng. Cuộc kháng chiến này được ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ có lúc đă đến tận Lhasa. Nó đă bị dẹp tan năm 1959 và hàng chục ngàn người Tạng đă bị giết. Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và những người chủ chốt trong chính quyền trốn sang Ấn Độ, nhưng sự kháng cự riêng lẻ c̣n tiếp diễn trong Tây Tạng cho đến 1969.
Trung Quốc đă đặt Ban Thiền Lạt Ma, một người được cộng đồng quốc tế xem là tù nhân ảo, làm nhân vật lănh đạo Lhasa, và tuyên bố rằng ông ta là người đứng đầu hợp pháp của chính quyền Tây Tạng với sự vắng mặt của Đạt Lai Lạt Ma, ngựi lănh đạo truyền thống của chính phủ. Năm 1965, phần đất U-Tsang và miền Tây Kham vốn thuộc quyền điều khiển của Đạt Lai Lạt Ma từ thập niên 1910 đến 1959 đă được đặt thành vùng tự trị. Trong thời gian cách mạng văn hóa, Hồng vệ binh đă hủy hoại nhiều di sản văn hóa trong toàn nước CHNDTH bao gồm cả các tài sản Phật giáo ở Tây Tạng. Trong số hàng ngàn tu viện, chỉ c̣n một ít nguyên vẹn không bị hủy hoại, và hàng ngàn tăng ni Phật giáo đă bị giết hoặc bị cầm tù.
Các nguồn tin đưa ra về số người Tây Tạng bị giết từ 1950 rất khác nhau. Con số ước tính thấp nhất là của Warren W. Smith làm từ các báo cáo dân số cho là vào khoảng 200,000 người Tây Tạng đă mất tích
Các cuộc đổi mới đă bắt đầu sau cuộc viếng thăm của Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung quốc Hồ Diệu Bang đến Lhasa vào 1980. Hầu như tự do tôn giáo đă bắt đầu chính thức phục hồi nhưng một số sư và ni cô vẩn c̣n bị bỏ tù, và hàng ngàn người Tạng lúc đó c̣n tiếp tục bỏ trốn hàng năm.
Chính phủ Tây Tạng lưu vong cho rằng hàng triệu người Trung Hoa nhập cư vào vùng TTTT là để đồng hóa người Tạng thông qua văn hóa và thông qua các cuộc hôn nhân dị chủng. Các nhóm Tạng lưu vong cho rằng mặc dù có nổ lực bề ngoài để phục hồi văn hóa nguyên thủy Tây Tạng để thu hút khách du lịch, th́ lối sống truyền thống Tây Tạng bây giờ đă hoàn toàn bị thay đổi. Chính phủ CHNDTH đă phủ nhận cáo giác này, chỉ ra các quyền cho người nói tiếng Tạng trong giáo dục và trước toà án cũng như là các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng cộng cộng đă nâng cao rất nhiều đời sống của người Tạng và cho rằng cho rằng đời sống người Tạng đă được nâng cao một cách vượt bậc so với thời của Đạt Lai Lạt Ma trị v́ trước năm 1950.
Địa lư
Tây Tạng nằm trên cao nguyên Tây Tạng, cao trung b́nh trên 4200 m. Phần lớn dăy Himalaya nằm trong địa phận Tây Tạng. Đỉnh cao nhất của dăy núi này, đỉnh Everest, nằm trên biên giới với Nepal.
Khí hậu ở đây rất khô suốt 9 tháng trong năm. Có những dăy núi tuyết vĩnh cửu cao 5.000-7.000 m. Các hẻm núi phía tây nhận được một lượng nhỏ tuyết mỗi năm nhưng vẫn có thể dùng được được quanh năm. Nhiệt độ thấp là chủ đạo trong khu vực này, trong đó sự hoang vắng lạnh lẽo đến tẻ nhạt bởi không có một loài cây nào ngoài một vài bụi cây rậm và thấp, và gió thổi ngang qua đồng bằng khô cằn mênh mông không hề bị cản trở. Gió mùa từ Ấn Độ Dương gây ra một số ảnh hưởng ở phía đông Tây Tạng. Phía bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh khủng khiếp về mùa đông.
Tây Tạng trong lịch sử bao gồm các khu vực sau:
* Amdo (a'mdo) ở phía đông bắc, được sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
* Kham (khams) ở phía đông, một phần của Tứ Xuyên, bắc Vân Nam và một phần của Thanh Hải.
o Tây Kham, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
* U (dbus), ở trung tâm, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
* Tsang (gtsang) ở phía tây, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
Văn hóa của người Tây Tạng ảnh hưởng rộng lớn tới các quốc gia láng giềng như Bhutan, Nepal, các khu vực kề sát của Ấn Độ như Sikkim và Ladakh, và các tỉnh kề bên của Trung Quốc mà ở đó Phật giáo Tây Tạng là tôn giáo chủ yếu.
Một số con sông chính có đầu nguồn ở Tây Tạng bao gồm:
* Dương Tử
* Hoàng Hà
* Sông Ấn
* Mê Kông
* Brahmaputra
* Sông Hằng
Kinh tế
Kinh tế của Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cung tự cấp. V́ hạn chế trong đất trồng trọt, chăn nuôi đă phát triển như ngành nghề chính. Trong những năm gần đây, du lịch đă trở thành một ngành quan trọng, và nó được xúc tiến một cách tích cực từ phía chính quyền. Tuyến đường sắt Thanh-Tạng (青藏铁路) được xây dựng để kết nối khu vực này với phần c̣n lại của Trung Quốc dài 1956 km nối tỉnh Thanh Hải với Tây Tạng được Chính phủ Trung quốc tuyên bố hoàn thành vào ngày 15 tháng 10 năm 2005.
Tuyến đường sắt Thanh-Tạng
Từ ngày 1/7/2006, Trung Quốc chính thức đưa vào vận hành tuyến đường sắt cao nhất thế giới, nối thành phố Thanh Hải với vùng Tây Tạng hùng vĩ.
Tuyến đường sắt lên Tây Tạng là công tŕnh xây dựng mang công nghệ phức tạp, với đường ray đặc biệt có khả năng ổn định trong điều kiện thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Ga đầu của tuyến đường sắt nổi tiếng này là thành phố Golmud thuộc tỉnh Thanh Hải và ga cuối là thủ phủ Lhasa của Tây Tạng.
Các toa tàu được thiết kế như khoang máy bay để bảo vệ hành khách trước độ cao quá lớn, với điểm cao nhất của công tŕnh lên tới 5.072 mét so với mặt nước biển. Không khí bên trong được điều ḥa tự động để cân bằng tại những nơi thiếu dưỡng khí mà tàu chạy qua.
Trung Quốc tuyên bố tuyến đường sắt Thanh-Tạng có tổng chi phí xây dựng 4,2 tỷ USD và dài 1.140km này là một kỳ tích vĩ đại về công nghệ, đem lại cơ hội phát triển to lớn cho một khu vực mênh mông hùng vĩ.
Chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng tuyến đường sắt cao nhất thế giới vừa được khánh thành, nhằm đưa công tŕnh được coi là kỳ tích xây dựng này vươn tới thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng sau Lhasa là Xigaze.
Thành phố Xigaze cao hơn mực nước biển 3.800 mét và nằm gần biên giới với Ấn Độ. Đây là nơi ngự trị truyền thống của Ban Thiền Lạt Ma, một trong những lănh đạo tinh thần quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Xigaze c̣n có cách viết khác là Shigatse có dân số 80.000 người. Vùng đất này tọa lạc tại nơi hợp lưu của hai ḍng sông nổi tiếng về tâm linh là Yarlong Tsangpo và Nuangchu, ở phía tây của Khu tự trị Tây Tạng.
Theo Tân Hoa xă, tuyến đường sắt sẽ được kéo dài thêm 270 km từ Lhasa tới Xigaze và hoàn thành trong ṿng 3 năm. Một quan chức địa phương là Yu Yungui nhấn mạnh: "Đường sắt sẽ tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế xă hội của Xigaze".
T́nh trạng cách ly đặc biệt của Tây Tạng về địa lư khiến kinh tế vùng đất này nghèo nàn. Hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung b́nh của người dân tại đây thấp hơn nhiều so với phần c̣n lại của Trung Quốc. Nhưng chính sự cách ly đó giúp bảo tồn nền văn hoá đặc trưng và lối sống không giống đâu trên thế giới này của Tây Tạng.
Sự xuất hiện của hệ thống đường sắt sẽ đem đến thay đổi dữ dội mà Bắc Kinh đánh giá là sẽ khai phá Tây Tạng, mang đến sự phồn vinh cho người dân địa phương. Nhưng những người chỉ trích công tŕnh này th́ cho rằng, nó sẽ là hồi chuông báo tử cho nền văn hoá đặc hữu của Tây Tạng.
Trước khi có đường sắt, chỉ có hai cách đến được với thủ phủ Lhasa. Đó là đáp một chuyến bay rất hao tiền để rồi dựng tóc gáy mỗi khi nó hạ cánh xuống Tây Tạng. Cách thứ hai là đi trên những chuyến xe buưt nêm chặt người và mất 3 ngày 3 đêm ṛng ră trên những con đường núi nguy hiểm và tổn sức.
Nhưng rất nhiều chiếc xe như vậy cùng hành khách của nó đă kết thúc cuộc hành tŕnh dưới một khe núi sâu nào đó có vô số trên đường.
Có nhiều ư kiến khác nhau về tác động của tuyến đường sắt đối với Tây Tạng. Nhiều người địa phương cho rằng: "Đó là một ư tưởng tốt. Nó sẽ giúp chúng tôi mang len ra thị trường dễ dàng hơn. Hiện chúng tôi phải thuê xe tải để chuyên chở, nhưng với tàu hoả nó sẽ rẻ và dễ hơn nhiều".
Tuy nhiên, các nhà môi trường học lại lo ngại về những ảnh hưởng của tuyến đường sắt đến con đường di trú của loài linh dương Tây Tạng quư hiếm. Họ cũng lo lắng cho một hệ sinh thái rất mong manh, mà một khi bị phá hỏng sẽ phải mất cả một thế hệ để sửa sai.
Dân số
Theo ḍng lịch sử, dân cư Tây Tạng chủ yếu là tộc người Tạng. Các tộc người khác ở Tây Tạng bao gồm người Menba (Monpa), người Lhoba, người Mông Cổ và người Hồi.
Việc đưa ra tỷ lệ người Trung Quốc gốc Hán ở Tây Tạng là một vấn đề chính trị nhạy cảm. Trong những năm từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, nhiều tù nhân (trên 1 triệu, theo Harry Wu) đă được đưa vào các trại cải tạo ở Amdo (Thanh Hải) và họ đă ở lại sau khi được trả tự do. Từ những năm 1980, sự tự do hóa kinh tế ngày càng tăng và những thay đổi bên trong khu vực đă tạo ra một luồng di cư của nhiều người Hán tới Tây Tạng để t́m kiếm việc làm hay định cư, mặc dù con số thực của việc di cư dân số này vẫn là điều gây tranh căi. Chính quyền Tây Tạng lưu vong ước tính con số này là 7,5 triệu (đối lại chỉ có 6 triệu người Tạng), coi điều này như là kết quả của chính sách tích cực trong việc làm mất bản sắc dân tộc của người Tạng và thu nhỏ bất kỳ cơ hội nào của về độc lập chính trị của Tây Tạng, và như thế đă vi phạm Công ước Geneva năm 1946 là ngăn cấm việc định cư của các lực lượng chiếm đóng. Chính quyền Tây Tạng lưu vong đặt dấu hỏi trên mọi con số thống kê được đưa ra bởi CHNDTH, bởi v́ họ đă không tính đến các thành viên của Giải phóng quân nhân dân đồn trú ở Tây Tạng (hoặc gia đ́nh họ), hoặc một lượng lớn dân di cư không đăng kư. Tuyến đường sắt Thanh-Tạng (Tây Ninh tới Lhasa) cũng là sự quan ngại lớn, v́ họ cho rằng nó sẽ làm thuận tiện hơn cho việc di dân.
Tuy nhiên, chính phủ CHNDTH không nhận ḿnh là lực lượng chiếm đóng và đă kịch liệt phản đối các luận điểm về mất bản sắc dân tộc. CHNDTH cũng không thừa nhận các biên giới của Tây Tạng như Chính quyền Tây Tạng lưu vong đă phát ngôn, cho rằng đó là âm mưu có tính toán nhằm tính cả những khu vực phi-Tạng mà những người không là người Tạng đă sống nhiều thế hệ (chẳng hạn như khu vực Tây Ninh và thung lũng Chaidam) để gia tăng nhận thức của người Tạng rằng lănh thổ của người Tạng là lớn hơn Khu tự trị Tây Tạng hiện nay. Thống kê chính thức của CHNDTH thông báo rằng 92% dân số ở Khu tự trị Tây Tạng là tộc người Tạng, mặc dù tỷ lệ này thấp hơn một cách đáng kể so với những dữ liệu đối với Amdo và đông Kham, bởi v́ người Trung Quốc gốc Hán không phân bổ đều trên toàn bộ Tây Tạng lịch sử. Trong khu tự trị Tây Tạng, phần lớn người Hán sống ở Lhasa. Các chính sách kiểm soát dân số như "mỗi gia đ́nh chỉ có một con" chỉ áp dụng đối với người Hán, mà không áp dụng với các dân tộc thiểu số như người Tạng. CHNDTH nói rằng chính quyền đang cố gắng bảo vệ các văn hóa truyền thống Tây Tạng; họ cũng xây dựng tuyến đường sắt Thanh-Tạng, phục hồi cung điện Potala và nhiều dự án khác như là một phần của chiến lược Phát triển miền tây Trung Quốc, là một cố gắng to lớn và đắt tiền của phần miền đông giàu có hơn của Trung Quốc đối với Tây Tạng nhằm phát triển các khu vực miền tây nghèo hơn.
Văn hóa, tôn giáo
Tây Tạng là trung tâm truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, một dạng đặc biệt của Mật Tông (Vajrayana). Phật giáo đứng đầu trong các tôn giáo và mang đậm dấu ấn trong văn hóa ở Tây Tạng. Đây là nơi sinh ra Mật Tông. Một tông phái của Phật giáo với văn hóa và phong cách đa dạng như Quán Đảnh, Tŕ Chú cùng với các vị Đạt-Lai-Lạt-Ma (Phật sống) đuợc nhiều người tôn thờ.
Phật giáo Tây Tạng không những chỉ được phổ biến ở Tây Tạng; nó c̣n là tôn giáo thịnh hành ở Mông Cổ và phổ biến mạnh trong tộc người Buryat ở miền nam Siberia. Tây Tạng cũng là quê hương của một tôn giáo nguyên thủy gọi là Bön (Bon). Hàng loạt các tiếng địa phương của tiếng Tạng được nói trên cả khu vực. Người Tạng viết bằng chữ Tạng.
Trong các thành phố Tây Tạng có các cộng đồng nhỏ người Hồi giáo, được biết đến như là Kachee (Kache), mà tổ tiên họ là những người di cư từ ba khu vực chính: Kashmir (đối với người Tây Tạng cổ là Kachee Yul), Ladakh và các nước của người Turk ở Trung Á. Ảnh hưởng của Hồi giáo ở Tây Tạng cũng đến từ Ba Tư. Ở đây cũng có các cộng đồng Hồi giáo Trung Quốc (gya kachee) mà tổ tiên của họ là dân tộc Hồi Trung Quốc. Người ta cho rằng những người Hồi giáo di cư từ Kashmir và Ladakh đă đến Tây Tạng vào khoảng thế kỷ 12. Dần dần các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ xă hội đă dẫn đến sự tăng dân số thành cộng đồng đáng kể xung quanh Lhasa.
Tây Tạng có nhiều danh lam thắng cảnh và một số phong tục tập quán lạ. Điển h́nh trong các phong tục là làm Mạn Đà La, tức là các ṿng tṛn bằng cát nhuộm màu để làm ra đủ loại h́nh thù hay và đẹp. Cung điện Potala, trước đây là nơi ở của các Đạt Lai Lạt Ma, là di sản thế giới.
Tượng Mao Trạch Đông ở Tây Tạng
Bức tượng nặng 35 tấn được dựng tại hạt Gonggar gần thủ phủ Lhasa ở Tây Tạng. Tượng cao 7m có bệ được xây vững chắc nhằm chống chọi lại những trận động đất.
Tượng Mao Trạch Đông sẽ là trung tâm của quảng trường Shangcha ở Gonggar - rộng 40.000 mét vuông - và sẽ hoàn thành vào tháng 7.[cần chú thích]
Bắc Kinh cho biết đây là bức tượng lớn nhất ở Trung Quốc và là tượng chủ tịch Mao đầu tiên ở Tây Tạng.
nguồn wikipedia
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Page
1
2
Xem tat ca
- Xem Tung trang
|
|
seriouskiller
member
REF: 328656
04/09/2008
|
Viêc phản đối TQ về các vấn đề như Tây Tạng là chuyện của các tổ chức nhân quyền hay cá nhân c̣n cấp chính phủ họ chỉ phản đối nhẹ nhàng vậy thôi. Rồi nói như jokerdumb người ta cũng lục tục đến Bắc Kinh để so tài và Olympic 2008 cũng sẽ thành công tốt đẹp.
Bây giờ thời thế khác với thời năm 1980 khi Liên Xô xâm lăng Afganistan bị thế giói tẩy chay Olympic nên chỉ có mấy nước XHCN tham gia thôi. Việt Nam răt hăm hở mấy vụ tranh tài này khi có dịp. Hiện vài ba vận động viên VN được dự đang tích cực luyện tập. Chuyện phản đối về Hoàng Sa hay Trường Sa chỉ là chuyện nhỏ.
Bàn chi cho mệt. Nước nhỏ, tiếng nói không có trọng lượng Thôi th́ nói th́ nói vậy ta cứ tới dự tiệc của TQ bày không th́ mất ḷng người anh cả khổng lồ hàng xóm.
|
|
ototot
member
REF: 328680
04/09/2008
|
Trong khi đọc những bản tin dồn dập trên truyền thông quốc tế, với kẻ chống người theo, mỗi cơ quan, mỗi nước, mỗi chính phủ, mỗi nhà chính trị, nói lên quan điểm cuả ḿnh, ai cũng có lư cuả ḿnh, chúng ta là người nghe, thấy khó ḷng đoán được những ǵ sẽ xẩy ra từ nay cho đến ngày 8-8-2008.
Có điều dư luận chung đều cho rằng ǵ th́ ǵ, Olympics 2008 cũng sẽ khai diễn như đă dự kiến; c̣n thành công hay không th́ cũng c̣n tuỳ mỗi người hiểu thế nào là thành công!
Một điều đáng để ư nưă là sau Olympics 2008, th́ sẽ lại c̣n có Olympics 2012 (cho Anh?), rồi Olympics 2016 (cho Mỹ?)..., nên người ta c̣n cần phải thận trọng lắm, nếu muốn tránh bị kẹt trong tương lai!
Nói chung, chuyện chính trị th́ lúc nào chẳng bao gồm những lợi dụng thời cơ, và bây giờ không "quậy" th́ sẽ "quậy" vào lúc nào cho dễ hơn!
Vậy ai theo dơi được, nghe ngóng được tin nào mới lạ th́ đăng lên cho mọi người cùng biết nhé!
Thân ái,
|
|
nminhhoang
member
REF: 328681
04/09/2008
|
Bạn của MH là người Tây Tạng đang học ở Mỹ,tâm sự với MH là TQ đă có dă tâm xâm chiếm TT từ thế kỷ 19 và từ nhiều thế kỷ trước đó nửa th́ TT đă nằm trong bản đồ của TQ.
Thân ái - Minh-Hoàng
|
|
ototot
member
REF: 329043
04/10/2008
|
Mời bà con nghe thêm truyền thông quốc tế từ Paris nói về "Rước Đuốc Olympics 2008".
|
|
da1uhate
member
REF: 329068
04/10/2008
|
Cám ơn bác Oto, mục điểm báo của đài RFI phải không bác?
|
|
ototot
member
REF: 329081
04/10/2008
|
Đúng thế, da1uhate! Tôi có thói quen nghe từ nhiều phiá, để sau đó có cảm nhận riêng cuả ḿnh !
|
|
jokerdumb
member
REF: 329107
04/10/2008
|
Trung quốc đổ thừa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma muốn huỷ hoại Thế vận hội
AUDRA ANG, Associated Press Writers
Đức Đạt Lai Lạt Ma
BẮC KINH - Thủ tướng Trung quốc Ôn gia Bảo hôm Thứ Ba đă cáo buộc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp đặt các vụ chạm trán bạo động để làm xấu đi h́nh ảnh của Thế vận hội Bắc Kinh, và nói rằng vị khôi nguyên giải Nobel Hoà b́nh đă xúi giục bạo động để đề xướng cho nền độc lập của Tây Tạng
Đức Đạt Lai Lạt Ma kêu gọi các tín đồ của ngài hăy giữ nguyên sự ôn ḥa, và nói rằng ngài sẽ từ bỏ chức vụ của người đứng đầu chính phủ lưu vong Tây Tạng nếu t́nh trạng bạo động vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Nhưng ngài cũng cho rằng Trung quốc có lẽ đă xúi bẩy các cuộc biểu t́nh tại Tây Tạng và các tỉnh lân cận để làm ngài mất uy tín.
Trong phản ứng ở tầng lớp cao cấp nhất của nhà nước Trung quốc, Ôn gia Bảo đă nhấn mạnh về quyết tâm của giới lănh đạo cộng sản để thu hồi lại quyền kiểm soát Tây Tạng và các vùng lân cận của Trung quốc, đồng thời bảo đảm cùng thế giới rằng họ xứng đáng để đứng ra tổ chức Thế vận hội.
“Có dư thừa sự thật – và chúng tôi cũng có nhiều bằng chứng - để chứng minh rằng các vụ rắc rối này đă đươc tổ chức, có dự tính, điều khiển và xúi giục bởi bè lũ Đạt Lai”, Ôn gia Bảo nói với các phóng viên báo chí tại buổi họp báo thường niên, ở cuối buổi họp của quốc hội Trung quốc.
“Tất cả những việc này đă cho thấy rơ hơn về những lời tuyên bố thường xuyên của bè lũ Đạt Lai rằng, họ không theo đuổi việc đ̣i độc lập nhưng chỉ muốn đối thoại ôn ḥa, là không có ư nghĩa ǵ cả ngoài những sự dối trá”. Ôn gia Bảo nói thêm.
“Khi bày ra các vụ rắc rối này, họ muốn huỷ hoại Thế vận hội Bắc Kinh, và họ cũng cố gắng thoả măn cái âm mưu thầm kín của họ bằng cách xúi giục gây ra các vụ rắc rối này”., theo Ôn gia Bảo, là người được báo chí quốc doanh Trung quốc mô tả là một kẻ hoà giải có đầu óc hiền ḥa.
Các cuộc xuống đường tại thủ đô Lhasa do các nhà sư dẫn đầu, được bắt đầu một cách ôn ḥa vào ngày 10/03, nhân dịp kỷ niệm một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Trung quốc, nhưng bị thất bại vào năm 1959 . Tây Tạng đă thực sự có độc lập hàng chục năm trời trước khi quân cộng sản Trung quốc tiến vào hồi năm 1959.
Các cuộc biểu t́nh bạo động càng lúc càng gia tăng tại Lhasa, được dẫn đầu bởi các nhà sư Phật giáo Tây Tạng, làm 16 người chết và hàng chục người bị thương, theo tin tức nhà nước cho biết. Vụ biến loạn này đă lan sang các tỉnh lân cận có đông đảo người Tây Tạng sinh sống. Trung quốc đă phủ nhận một lời cáo giác của chính phủ lưu vong của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ấn Độ rằng có đến 80 người bị thiệt mạng.
Các cuộc biểu t́nh đă khiến thế giới chú trọng vào t́nh trạng nhân quyền tại Trung quốc, trước thềm Thế vận hội Bắc Kinh. Nhà nước cộng sản Trung quốc muốn bảo đảm rằng Thế vận hội từ ngày 8/8 đến 24/8 sẽ làm tăng uy tín của họ trên thế giới.
Các giới chức ngành thể dục thể thao từ Liên hiệp Âu Châu, Nga, Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi, đă bác bỏ việc tẩy chay Thế vận hội. Nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, ông Bernard Kouchner cho biết vào hôm Thứ Ba rằng, Liên hiệp Âu Châu nên xem xét việc tẩy chay lễ khai mạc nếu bạo động tiếp tục xảy ra tại Tây Tạng.
Phát biểu từ Dharmsala tại Ấn Độ, là nơi tạm dung của chính phủ lưu vong của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă kêu gọi cả hai bên hăy chấm dứt bạo động.
“Tôi muốn nói cùng Trung quốc và người dân Tây Tạng rằng - đừng gây ra bạo động”. Ngài cho rằng chính nhà nước Trung quốc có lẽ đă nhúng tay vào để làm hại cho uy tín của ngài.
“Có thể là có vài mật vụ Trung quốc đă dính dấp vào đó. Đôi khi các chế độ độc tài rất thông minh, cho nên điều quan trọng là phải mở cuộc điều tra”
Ngài nói rằng, “nếu sự việc trở nên không c̣n kiểm soát được”, th́ ngài “chỉ có một sự lựa chọn là hoàn toàn từ chức”.
Sau đó, một trong những phụ tá cao cấp của ngài đă làm cho rơ ràng lời phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Nếu người dân Tây Tạng chọn lựa đường lối bạo động, th́ ngài sẽ từ chức bởi v́ ngài đă cam kết hoàn toàn theo đường lối bất bạo động. Ngài sẽ từ bỏ chức vụ của một lănh tụ chính trị và của một nhân vật đứng đầu chính phủ, nhưng ngài không từ bỏ chức Đạt Lai Lạt Ma .Ngài sẽ luôn luôn là Đức Đạt Lai Lạt Ma” . Ông Tenzin Taklha, một phụ tá của Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích.
Các giới chức Hoa Kỳ đă thúc gịục Trung quốc nên giải quyết các mối bất b́nh bấy lâu nay của người Tây Tạng và tiến hành việc đối thoại trực tiếp với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Tôi nghĩ rằng lời tuyên bố của Đức Đạt Lai Lạt Ma đă chỉ ra cho thấy sự thật là ngài không đ̣i hỏi độc lập cho Tây Tạng hoặc đ̣i tách rời khỏi Trung quốc. Nhưng hoàn toàn ngược lại, ngài chỉ đ̣i hỏi có sự đối thoại với người Trung hoa”. Phát ngôn viên Tom Casey cuả Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói.
Trong khi đó, nhà cầm quyền Trung quốc đă tiến hành việc lùng bắt những người xuống đường biểu t́nh tại Lhasa.
Duoji Zeren, phó thống đốc Tây Tạng, đă được nhắc lại trên đài truyền h́nh nhà nước về lời phát biểu rằng nhà cầm quyền “sẽ dùng các phương pháp kiên quyết để bắt giữ các kẻ t́nh nghi chính yếu” nhưng không cho biết thêm bất cứ chi tiết nào.
Các nhân chứng nói rằng nhà cầm quyền đă lùng bắt nhiều người kể từ hôm cuối tuần, nhưng không có sự xác nhận về bất cứ vụ càn quét bắt bớ nào kể từ đêm Thứ Hai khi thời hạn chót dành cho cho những người xuống đường biểu t́nh phải ra đầu thú hoặc đối diện sự trừng phạt nghiêm trọng đă chấm dứt mà không có vụ đầu hàng nào rơ ràng xảy ra.
Sự kiểm soát chặt chẽ của Trung quốc về thông tin và việc cấm đoán các chuyến đi vào Tây Tạng của phóng viên nước ngoài đă giới hạn các bản tin độc lập được tường thuật từ bên trong khu vực.
Cảnh sát tại Lhasa đă từ chối không nói ǵ. Phó chủ tịch ban tuyên vận của Đảng uỷ cộng sản Tây Tạng nói rằng “con số bị bắt giữ sẽ được công khai hóa trong thời gian sắp tới”.
Ôn gia Bảo nói rằng thủ đô Lhasa đă trở lại b́nh thường và “sẽ mở cửa trở lại cho toàn thế giới”, nhưng không nói là khi nào.
Trung tâm Dân chủ Nhân quyền Tây Tạng đặt tại Ấn Độ cho biết hàng ngàn người Tây Tạng đă tụ họp trên đường phố tại Seda, một huyện nằm trong tỉnh Sichuan ở phía nam, và t́nh h́nh “vô cùng căng thẳng”.
Tỉnh Sichuan nằm giáp biên giới Tây Tạng đă thấy có các cuộc biểu t́nh cảm thông khác trong vài ngày qua.
Các cú điện thoại gọi tới các cơ quan chính quyền , cảnh sát và ban tôn giáo huyện Seda đă không được trả lời.
John Kenwood một khách du lịch 19 tuổi từ Victoria, Canada, đă rời khỏi Lhasa sáng Thứ Ba nói rằng anh đă nh́n thấy các phu quét đường mặc áo ngoài màu vàng có phù hiệu của biểu tượng Thế vận hôi Bắc Kinh.
“Khi các cuộc chạm trán bắt đầu th́ không thấy người Tàu. Bây giờ th́ lại không thấy người Tây Tạng trên đường phố. Giới trẻ Tây Tạng có lẽ đă lẩn trốn”. John Kenwood cho biết khi anh ta vừa đến Nepal.
Cảnh sát Nepal đă bắt giữ khoảng 50 người xuống đường biểu t́nh đ̣i hỏi Liên Hiệp Quốc điều tra vụ đàn áp của Trung quốc tại Tây Tạng, theo các viên chức Nepal cho biết. Đây là vụ biểu t́nh lần thứ ba trong vài ngày qua ở gần trụ sở Liên Hiệp Quốc tại thủ đô Katmandu của Nepal.
Khoảng 600 người đă xuống đường phản đối tại Lausanne, Thuỵ Sĩ, đ̣i hỏi Uỷ ban Thế vận Quốc tế huỷ bỏ đoạn rước đuốc Thế vận tại Tây Tạng.
Uỷ ban Thế vận Quốc tế nói rằng họ cùng với những nơi khác kêu gọi cho một giải pháp ôn ḥa cho những căng thẳng tại Tây Tạng, nhưng vẫn giữ ư định tiếp tục tiến hành với đoạn rước đuốc Thế vận qua thủ đô Lhasa vào tháng Sáu.
China: Dalai Lama wants to sour Olympics
By AUDRA ANG, Associated Press Writers 11 minutes ago
|
|
da1uhate
member
REF: 329313
04/11/2008
|
Cám ơn bài post của anh jd. Tôn giáo vẫn là vấn đề nhạy cảm khó có thể đem ra bàn luận công khai. Bản thân D chưa là 1 đệ tử của Đức Phật A Di Đà nhưng D có đọc qua một số kinh sách và có hiểu chút xíu về Phật học. Theo D th́ Phật giáo là 1 tôn giáo ôn ḥa, nếu đă là 1 tu sĩ th́ chỉ lo công việc chính là tu học và hoằng pháp để chúng sanh thoát khỏi bể khổ th́ can cớ ǵ mà gây xách động được như kiểu chính quyền TQ loan tin. D chẳng bao giờ tin chuyện đó. Chỉ đơn giản là vậy, c̣n chuyện chính trị th́ không dám bàn. Nếu ai có cao ư hoặc tin tức ǵ về vấn đề Tây Tạng th́ xin chia sẻ để cùng tham khảo.
D sẽ tập giống như bác Oto, sẽ nhận thông tin từ nhiều phía để con mắt D được khách quan hơn.
|
|
seriouskiller
member
REF: 329362
04/11/2008
|
Hiện giờ ở Tây Tạng có 2 loại người Tây Tạng. Một loại người tạm gọi là Tây Tạng đỏ, Những người này làm việc cho TQ kiểu như tay sai hay công bộc Họ được ưu đăi như đi du học, thăng tiến giữ các chức vụ quan trọng để chứng tỏ cho thế giới thấy dân Tây Tạng được coi như anh em. Những người này học sử Tây Tạng theo các thầy TQ biên soạn, áp đặt lịch sử theo chủ kiến của TQ. Nếu có ai gặp những người này mà hỏi họ Hoàng Sa và Trường Sa là của ai th́ họ nhất quyết bảo là của TQ.
Những người Tây Tạng c̣n lại tạm gọi là Tây Tạng đen, những người chống đối có lẽ thuộc nhóm này. Họ bị phân biệt đối xử.
Phật giáo là tôn giáo hiền ḥa bặc nhất trong các tôn giáo. Bởi thế nó cứ bị các tôn giáo khác lấn lướt như đạo Hồi. Áp gan nixtan xưa kia là xứ Phật giáo có tượng Phật lớn nhất thế giới thế mà bây giờ thành xứ Hồi giáo noi dung thân của Taliban và Bin Laden.
|
Page
1
2
Xem tat ca
- Xem Tung trang
|
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|