Video này là để thay thế cho phát biểu cuả tôi về việc “giọng Bắc Kỳ” được coi là chuẩn cho việc phát âm tiếng Việt ở chỗ là những âm sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, đều rất chuẩn xác so với “giọng Huế” và “giọng Nam kỳ”! Vì thế, hầu hết các ca sĩ dù sinh ra và lớn lên ở miền Trung hay miền Nam, cũng đều phát âm ca từ theo “giọng Bắc Kỳ”!
Nhưng điều đó không có nghiã là “giọng Bắc Kỳ” được coi như là chuẩn mực chính thức cuả cả nước cho tiếng Việt nói chung, vì bản thân “giọng Bắc Kỳ” vẫn có nhiều người phát âm sai, chứ không hoàn toàn là đúng! Nói chi người Bắc Kỳ ngày nay không còn nhất thiết phải là người sinh đẻ và lớn lên từ miền Bắc, nhưng vẫn lấy tiếng là nói “giọng Bắc Kỳ”
Cái clip (chứ không phải “cờ líp” như lối nói ngọng cuả người Việt!) quay cảnh 3 con chó sói không dám đuổi bắt con chó nhà, làm tôi nhớ lại tục ngữ Việt “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”!
Thì ra 3 con sói thấy con mồi về đến nhà nó, đúng hơn là nhà cuả chủ nó, thì … sợ người, vác súng bắn toi mạng!
Tiếng Việt nhà mình quả là phong phú thiệt!
Cũng phong phú như đề tài cuả tiết mục là “5 kiểu buộc dây giày” cuả HTN, thì … từ chuyện nọ xọ sang chuyện kia, miên man đến chuyện … cọp cái, lại nhảy sang chuyện khác nưã!
Trở lại chuyện “buộc” dây giày, thực ra là những kiểu “xỏ” dây giày, hay còn gọi là “luồn” dây giày, mà các nhà sản xuất giày, khi bày bán giày thì đã “xỏ” hay “luồn” sẵn, để người mua “đút” chân vào thì “thắt” dây giày cho giày khỏi tuột khỏi chân, nhất là giày thể thao, như giày chạy, giày nhảy, giày đá bóng, giày quần vợt, v.v…
Tiếng Anh/Mỹ thì … “nghèo nàn” hơn tiếng Việt, nên họ nói “ to tie a shoe”, nghiã là … “cột chặt”, buộc chặt” cái giày vào chân, mà chủ nhà HTN lại … dịch là “buộc” cái dây giày!
Dưới đây mới là động tác “buộc” dây giày, sau khi dây đã được “luồn” hay đưọc “xỏ” vào giày rồi!
Thân ái,
Ghi chú: «Cọp cái» nhất định là khoái kiểu buộc trong clip, vì vừa nhanh, vừa dễ, vừa đơn giản !!!
1. Answer these questions about lesson eighteen:
2. What does David do on the train?
3. Does he sit down?
4. What are commuters?
5. How long does the journey take?
6. Does he walk quickly? Why?
7. On what floor is his office?
8. Does he arrive on time?
9 What does his wife do with the dishes?
10. What time does she leave the house?
11. Is her office near or far?
12. Her office is near the house; it is close.
13. The shop closes at six o’clock.
14. Please sit down – No, I prefer to stand.
Hãy trả lời bằng tiếng Anh,
những câu hỏi từ số 2 đến số 11 ở cột bên trái.
Xin hãy … thật thà một chút:
hãy trả lời mà đừng … ăn gian
là giở lại bài số 18 để … chép lại!
Hãy dùng trí nhớ để trả lời
những câu hỏi. Hãy viết những
câu trả lời theo sự hiểu biết
cuả mình, và những câu này không
nhất thiết phải giống hệt như
những câu trong bài 18!
Hãy nghe audio, và tập trả lời trước là bằng miệng, và sau là bằng viết!
Husband and wife
1.On the train, David reads his paper.
2.He stands because the train is full.
3.People that travel to work every day are called “commuters”.
4.The journey takes twenty minutes and he has ten minutes to walk to the office.
5.He hasn’t much time, so he walks quickly.
6.He crosses the City and arrives at his office.
7.He takes the lift to the fourth floor.
8.He goes to his desk and sits down. He is on time.
9.His wife Joan washes the dishes and leaves the house at ten to nine.
10.Her office is quite near, so she always walks.
11.It takes her eight minutes to arrive at her office.
12.She is a secretary in an accountants firm.
13.At nine o’clock, both the Wilsons are working.
Chồng và vợ
Trên tàu, David đọc báo.
Anh (phải) đứng, vì toa tàu đã đầy.
Ai mà phải “xe tàu” đi làm mọi ngày, gọi là “commuters".
Cuộc hành trình mất 20 phút, và anh có 10 phút để đi bộ tới sở.
Anh ta không có nhiều thời gian, nên phải rảo bước.
Anh băng qua nhà City và đến sở.
Anh lấy thang máy lên tầng 4.
Anh đến bàn giấy và ngồi xuống. Anh đúng giờ.
Vợ Joan cuả anh rưả chén điã và rời nhà lúc 9 giờ thiếu 10.
Sở làm cuả cô ta gần (nhà) lắm, nên bao giờ cũng đi bộ.
Cô ta mất 8 phút thì đến được sở làm.
Cô làm thơ ký cho một công ty kế toán.
Đến 9 giờ thì hai vợ chồng Wilsons đang làm việc
Audio Bài thứ 18
@ taolao:
"Have you got any cigarettes?" sao tác giả k dùng Do you have any cigarettes?
Viết hay nói theo cách nào cũng đúng cả, nhưng có thêm chữ “got” thì dễ dằn giọng hơn, làm cho ý nghiã cuả câu nói trở nên mạnh mẽ hơn!
Let's meet David.
1. What time is your train? – At eight thirty.
2. Well, hurry up! It’s eight fifteen already.
3. Alright! Keep calm.
4. But David, you’re late.
5. Don’t shout. I can hear you.
6. Where are my shoes? – Here, with your brief-case.
7. Okay. I’m ready – At last!
8. What time is it now? – It’s twenty past eight.
9. Right. I’m off. Bye-bye love. – Good-bye!
10. It’s now twenty-five past eight. David is at the station.
11. He has his paper under his arm.
12. His brief-case is on the platform and he is waiting for the eight-thirty train.
13. “It’s never on time”, he says impatiently.
14. What time is it? Hurry up – I’m off.
Ta hãy gặp Davìd
Tàu anh chạy mấy giờ? – Lúc 8 rưỡi.
Vậy, nhanh lên! Đã 8 giờ 15 rồi.
Được rồi! Hãy bình tĩnh.
Nhưng David à, anh trễ rồi.
Đừng la. Tôi nghe em rồi nè.
Đôi giày cuả anh đâu ? – Đây, cả cặp xách nưã này.
Ô kê. Anh đã sẵn sàng – Sau cùng mà!
Bây giờ là mấy giờ ? – Tám giờ 20!
Rồi. Anh đi đây. Tạm biệt cưng. -- Tạm biệt!
Bây giờ là 8 giờ 25. David đang ở nhà ga.
Anh kẹp tờ báo (dưới) trong tay.
Cái cặp xách anh để trên sân ga, và anh đang đợi chuyến tàu 8 giờ 30.
"Tàu chẳng bao giờ đúng giờ cả", anh bồn chồn nói.
Mấy giờ rồi? Nhanh lên! - Em đi đây.
1. Where do you live? – I live in a suburb called Harrow.
2. How do you go to work? (1) – I take the tube every morming.(2)
3. Why do you take the train? (3) You’ve got a car.
4. There is too much traffic and there are too many people.(4)
5. And petrol is too expensive.(5)
6. When do you use your car? – At weekends. (6)
7. We go to the country. We go to Windsor quite often. (7)
8. I don’t know Windsor.
9. I’m going there on Saturday. Do you want to come? (8)
10. Yes, please. (9)
11. Too much traffic, too many cars. (10)
12. Too much noise, too many people.
Nhà anh ở đâu? – Nhà tôi ở một khu ngoại ô gọi là Harrow.
Anh đi làm bằng gì? - Sáng nào tôi cũng đi tàu điện ngầm.
Tại sao lại đi tàu? Anh có ô tô mà.
Xe cộ tấp nập quá, và người thì quá đông.
Và xăng lại quá đắt.
Vậy khi nào mới đi ô tô? Vào cuối tuần.
Tụi tôi đi về nông thôn. Chúng tôi rất thường đi Windsor.
Tôi không biết Windsor.
Thứ bảy tôi sắp đi nơi đó. Anh có muốn (cùng) đến không?
Làm ơn cho tôi đi với.
Nhiều xe pháo quá, nhiều ô tô quá.
Ồn ào quá, đông người quá.
Audio Bài thứ 16
Ghi chú: (1) How? = Thế nào; bằng cách nào, như thế nào?
(2) Every = Tất cả (singular=số ít). Every year = Năm nào cũng.
(3) “Train” ở đây không phải là “xe lưả”, mà ngữ cảnh là “tàu điện ngầm”.
(4) “Much traffic” = nhiều xe pháo; Many people =nhiều người. Dùng “much” khi không có ý đo, đếm.
(5)”Petrol” = xăng (British); “gasoline” = gas = xăng (American)
(6) Để ý cách dùng giới từ “At”. “At weekends = On weekends”. Nhưng “On Monday” chứ không thể “At Monday” được!
(7) Quite = Very. “Often” = hay, thường xuyên. ‘How often ?” = Bao lâu (lại)?. Ví dụ: “How often do you have a haircut” = Bao lâu anh hớt tóc một lần? “Once a month” = Tháng một lần. “Once every two months” = Hai tháng 1 lần…
(9) “To go” = Đi (từ gần ra xa). “To come” = Đến (từ xa lại gần). “There” = ở đó (xa xa).
(10) Để ý cách nói “nhiều” cuả tiếng Việt. “Nhiều tiếng ồn” = much noise. “Nhiều bài ca” = many songs…
1.Hello, I’m David Wilson. I live in a suburb of London.
2. It’s called Harrow. There’s a famous school here.
3. I work in London. I’m a journalist on the “Daily Wail”
4. I travel to work by tube.
5. I go from the station to the office on foot.
6. What is his name? – He’s David Wilson.
7. Where does he live? – He lives in Harrow.
8. Does he travel to work by car?
9. No, he takes the tube, he doesn’t take his car.
10. Hello, I’m David Wilson. I’m a journalist.
11. My wife’s a secretary.
12. We both work in London.
Xin chào, tôi là David Wilson. Tôi cư ngụ ở ngoại ô London.
Chỗ ấy gọi là Harrow. Có một trường nổi tiếng ở đây.
Tôi làm việc ở London. Tôi là nhà báo cuả tờ “Daily Wail”
Tôi đi làm bằng xe điện ngầm.
Tôi đi bộ từ trạm xe điện đến sở.
Tên hắn là gì? - Hắn là David Wilson.
Hắn ngụ tại đâu ? - Hắn ngụ tại Harrow
Hắn có đi làm bằng ô tô không ?
Không, hắn đi xe điện ngầm, hắn không đi ô tô.
Xin chào, tôi là David Wilson. Tôi là nhà báo.
Vợ tôi làm thư ký.
Cả hai chúng tôi đều làm việc ở London.
Bản tính cuả con người, dù là người ta, tây, hay tàu…, là khi gặp chuyện không ưng ý, thì … đổ thưà cho người khác.
Trong thể thao, ta thua là vì trọng tài tồi, vì thời tiết xấu, vì đối phương chơi không công bằng, vì sân chơi không thích hợp, vì giờ giấc chơi không thuận tiện, vì luật chơi không minh bạch, vì khán giả thiếu vô tư, v.v…, chứ rất ít khi chịu nhìn nhận đối phương chơi thông minh hơn ta, thể lực hơn ta, tài nghệ hơn ta…
Vì thế, trong thi đấu, người ta đặt nặng tinh thần thể thao (sportsmanship) là sau khi thi đấu, người thắng không kiêu ngạo, và kẻ thua cũng không mặc cảm dẫn đến ... cay cú!.
Ví dụ trong quyền Anh , khi thi đấu thì tìm cách đánh gục đối phương cho đo ván, cho … hộc máu mồm ra, mỏ phù ra, nhưng sau khi trọng tài tuyên bố thắng thua thì kẻ thắng “âu yếm” ôm lấy người thua!
Còn gần đây, sau khi U23 cuả mình cảm thấy … yếu thế, thì lấy cớ … sân cỏ phủ tuyết trắng xoá mà đồng phục cuả đối phương chủ yếu cũng là trắng, thì cầu thủ ta … loá mắt, không nhìn thấy đối phương di chuyển, không thấy họ đang có bóng trước khuôn thành, nên thua!
Họ quên mất rằng, đổ thưà cho màu trắng cuả áo làm loá mắt cầu thủ Việt, thì cũng như là công nhận mắt họ tinh hơn mắt ta, vì họ vẫn nhìn thấy nhau để chuyền bóng! Và ngược lại, mắt ta … gà mờ hơn mắt họ! Và mắt ta kém hơn mắt họ, thì thua là phải! Chắc là sau khi thay đồng phục màu xanh, mắt họ đã tinh, lại tinh hơn, nên chung cuộc họ vẫn thắng!
Tôi chỉ có một thắc mắc, là chưa thấy ai đổ thưà cho đúng, là ban tổ chức lẽ ra phải dời trận đấu đến một ngày khô ráo hơn, hoặc tốt hơn cả là chọn sân chơi ở một nơi có khí hậu tương đối ôn hoà cho cả hai đội. Tàu là chủ nhà, không làm điều đó, vì họ sợ tốn tiền, hay vì kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm tổ chức, hay … cố ý tạo cơ hội để dìm Việt Nam, cho đỡ mất mặt vì thành tích tồi tệ cuả U23 ba tầu!
Chẳng thấy ai chê trách nước đăng cai cả, thì thấy buồn buồn!
Ghi chú: Tưởng cũng nên biết khi AFC (Asian Football Confederation = Liên Đoàn Bóng Đá Châu Á) quyết định chọn thời gian thi đấu cho Asian Cup năm 2011, họ quyết định thời gian là tháng Giêng, thay vì tháng 7 hay tháng 8, là vì muà Hè ở vùng Vịnh thì nóng như thiêu đốt, bất lợi cho đội chủ nhà! Cũng do dư luận thế giới chê trách, nên đến World Cup 2022 sắp tới do FIFA (Federation Internationale Football Association) tổ chức, họ phải chịu nhượng bộ cho thi đấu vào những tháng hè, vì dù nóng hay lạnh thì họ cũng chẳng hy vọng cơm cháo gì ở giải FIFA thế giới này!
Tôi có cảm tưởng hình như chưa bao giờ internet và truyền thông bàn tán xi xầm nhiều về những cuộc tranh tài bóng đá gần đây đặc biệt là những đội bóng U23 cuả nước này, nước nọ ở Châu Á, trong đó có đội cuả Việt Nam.
Theo tôi, sự kiện thể thao này chẳng có gì để ta làm rùm beng đến như thế, bởi 2 lý do sau đây:
U23 chỉ là những đội bóng có cầu thủ dưới 23 tuổi (chữ U trong U23 là để viết tắt từ “Under” = Dưới).
Trong tổ chức FIFA, còn biết bao nhiêu là những U khác, như U18, U19, U20, U21….!
Biết đâu đấy, một ngày đẹp trời kia, có anh nào đó thuộc loại “Khùng khùng điên điên” trong làng bóng đá, không chừng ở Việt Nam cũng có thể, sẽ lập ra một đội bóng U90 (under tuổi 90) để tha hồ cho nhiều lưá tuổi từ trẻ nít đến ông già … 90 đá với thế giới, dưới sự bảo trợ cuả … FIFA!
Nói vậy thôi, ta chỉ nên lập ra những đội bóng trên 40, trên 50, …, xem chừng có lý hơn! Và các đội thi đấu sẽ mang danh 075 (O là “over” = quá) trong đó các cầu thủ phải tuổi từ 75 trở lên! Tuổi càng cao, khán giả càng được xem những … “cụ” vưà bò, vưà đá, vưà thở…, chắc sẽ vui hơn xem bọn U23 hay U24… đá hùng hục!
Lý do kế tiếp, ta chẳng nên rùm beng, là vì đây chỉ là thi đấu cho một châu lục, từ xưa đến nay chả có tiếng tăm gì về môn thể thao này, như là châu Á chúng mình, vì nói đến bóng đá là phải kể đến châu Âu (như Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha) hay Trung Mỹ, Nam Mỹ (như Honduras, Costa Rica, Argentina, Peru, Brazil…)!
Chắc có bạn bảo tôi nói càn, vì hiện nay nhiều đội bóng hàng đầu cuả châu Âu cũng đã mua được nhiều cầu thủ tiếng tăm từ châu Á, như từ Nhật, Đại Hàn, Ba Tàu, và cả Việt Nam nhà mình nưã!
Nhưng nếu quả thực châu Á cũng đá giỏi và có nhiều "siêu sao" thì sao chưa bao giờ có nước châu Á nào thắng World Cup? Không tin, thì cứ chờ World Cup 2018 ở Nga và World Cup 2022 ở Qatar!
Tôi khoan khoan trả lời HTN là U23 Việt Nam và Uzebekistan ai thắng ai thua, vì cứ lý luận thôi: Việt Nam mà thắng thì … chết chóc sẽ không biết bao nhiêu người mà kể, do sự cuồng nhiệt cuả hàng triệu thanh thiếu niên Việt Nam! Vậy ta thấy Việt Nam thua là một … đại hồng phúc cho dân tộc mình đó, bà con à!
Gàn đây, ngôn ngữ Việt đã có thêm một từ nhập cảng vào : đó là chữ FAN cuả tiếng Anh; “fan” là viết tắt cuả chữ “fanatic”; tra từ điển sẽ thấy “fanatic” = “kẻ cuồng tín”, theo định nghiã là người nào đó say mê, thích thú, một cách quá mức, đến độ không thể kiềm chế được hành động cuả mình. Tiếng Việt mình rất chính xác khi có những từ “cuồng tín”, “cuồng nhiệt”, “ngông cuồng”, trong đó “cuồng” = điên dại!
Tôi góp ý vài dòng này không phải là ngoài đề tài học tiếng Anh cuả HTN đâu nha! Thiết nghĩ ta yêu thích một bộ môn nghệ thuật hay thể thao, hay yêu thích một nghệ sĩ nào đó, vận động viên nào đó… là chuyện bình thường, nhưng khi tự nhận mình là “fan” cuả cái gì đó, hay cuả ai đó, thì xin đừng trở thành “fanatic” đến mức không còn kiểm soát được cảm xúc cuả mình, lý trí cuả mình, thì "fan" có thể trở thành lố lăng, khó coi, thậm chí nguy hiểm cho ... trật tự cổng cộng!
Ở bên Anh, có hiện tượng một số “fan” cuả đội bóng này, đội bóng nọ, đi ủng hộ bên này hay bên, rồi bạo động gây chết chóc lớn. Những “fanatic” hay “fan” này được liệt chung vào thành phần “du đãng” (hooligans)!!!
Trên đây là ý kiến riêng cuả tôi với thiện ý, ai cũng có quyền đồng ý hay không đồng ý, nhưng xin đừng … chụp mũ nha!
Chú thích: Mấy cái clip cổ động viên Việt Nam phất cờ reo mừng, có thể là thực hiện trong trận U23 Việt thắng U23 Qatar khi đá penalty luân lưu, hoặc khi Việt Nam gỡ hoà 1-1 trong hiệp 1 với Uzebekistan, để sau cùng đến phút 118 cuả 2 hiệp phụ mới bị Uzebekistan gác 2-1 và kết thúc trận đấu!
Trong mấy ngày vưà qua, những trang mạng Việt Nam rất sôi nổi về tin đội bóng U23 Việt Nam để lỡ cơ hội giành chức vô địch châu Á…! Và diễn đàn nhà mình cũng có bài trách móc một số cổ động viên có "hành xử phi thể thao" (unsportsmanlike conduct)!
Bản thân tôi cũng muốn “nhảy” vào góp ý, nhưng xét rằng chẳng đáng quan tâm lắm đến những hành động gọi là ấu trĩ đó, và chỉ có ý kiến về việc diễn tả cảm nghĩ bằng tiếng Anh, cho phù hợp với tiết mục học tiếng Anh này.
Mời bà con xem hình chụp trang mạng này,
hãy đọc sẽ thấy anh chàng Huy Nguyen này diễn tả bằng tiếng Anh tuy không hay lắm, nhưng cũng tạm hiểu được.
Còn diễn tả cuả một người Uzbekistan thì khá hơn đôi chút, mặc dầu cũng hơi lủng củng, phải không?
Sau cùng là bình luận cuả một bạn có vẻ là nữ với cái tên Trần Phương Uyên, cũng lủng củng không kém, mặc dầu cũng tạm hiểu được, phải không?
Tôi chụp lại trang mạng để bà con đang học tiếng Anh hãy góp ý, không phải về trận thi đấu thể thao, mà về cách diễn tả bằng tiếng Anh nhé!
Xin nói thêm một tí về lớp người Việt di dân sang Mỹ, thuộc thế hệ thứ nhất, tức là lớp người nay tuổi trong khoảng từ 70 trở lên, đa số là cư ngụ tại “bang California”, ngày xưa gọi là “tiểu bang California”.
Do ít hiểu về tổ chức hành chánh ở Mỹ, đa số người Việt ta ở Mỹ, và cho đến tận bây giờ, vẫn gọi “Orange County” là “Quận Cam”!
Trong tổ chức hành chánh ở Việt Nam, quận là đơn vị nhỏ hơn trong một thành phố. Ví dụ Thành Phố Sài Gòn là gồm các Quận, như Quận 1, Quận 2, Quận 3, v.v… (Còn ở ngoại thành thì "quận" đổi thành "huyện"). Sau năm 1975, miền Bắc cũng bắt chước cách phân chia này cuả miền Nam, nên cũng bắt đầu có Quận, như Quận Hoàn Kiếm, Quận Đống Đa…
Vậy thì danh từ “County” ở Mỹ không thể dịch là “Quận” được, vì “County” là tập hợp cuả rất nhiều thành phố (cities)! Theo tôi, "County" nên dịch là "Hạt" chăng?
Tưởng cũng nên biết toàn nước Mỹ có 3077 counties; và mỗi “bang” hay “tiểu bang” (state) trung bình có 62 counties.
Vậy là một county thì lớn lắm, người Việt mà gọi “Orange County” là “Quận Cam” thì tôi e rằng họ có vấn đề tâm thần đấy! Mà dân Cali mà cũng nói "Quận Cam" thì còn ... bị tâm thần nặng hơn!!!
Trở lại California: Bang này thuộc loại lớn nhất nước Mỹ, có cả thẩy 58 counties, và 58 counties này bao trùm lãnh thổ cuả 482 cities!
Những cities của Orange County là: Cities of Aliso Viejo, Anaheim, Brea, Buena Park, Costa Mesa, Cypress, Dana Point, Fountain Valley, Fullerton, Garden Grove, Huntington Beach, Irvine, La Habra, La Palma, Laguna Beach, Laguna Hills, Niguel, Laguna, Laguna Woods, Lake Forest, Los Alamitos, Mission Viejo, Newport Beach, Orange, Placentia, Rancho Santa Margarita, San Clemente, San Juan Capistrano, Santa Ana, Seal Beach, Stanton, Tustin, Villa Park, Westminster, Yorba Linda; cả thảy 34 cities!
Tôi không đồng ý góp ý kiến thêm về “The Real Housewives of Beverly Hills” vì hình như những ai không sống ở Mỹ, hoặc sống cả mấy chục năm ở Mỹ, nhưng không hoặc … không muốn hội nhập vào văn hoá Mỹ, như thế hệ Việt di dân sang Mỹ từ 1975 về trước…, cụ thể là lớp người Việt tuổi trong khoảng 70, 80, 90…, khi xem loạt show này cũng chẳng hiểu và thưởng thức cái gì!!!
Lý do tôi không đồng ý là vì “The Real Housewives of Beverly Hills” không phải là một bộ phim đơn độc (a movie film) , mà thực ra chỉ là một “hồi” (episode) trong một loạt (series) hàng mấy chục “TV show” mang một tên chung là “The Real Housewives” = “Những bà nội trợ thật”.
Nếu ai tò mò, lên Google sẽ tìm ra hàng chục, hàng trăm “Real Housewives” như trong nước Mỹ thì có “The Real Housewives of Orange County” … “… of New Jersey” , … “… of Atlanta”…; còn quốc tế thì có “The Real Housewives of Athens”, “… of Vancouver”, “… of Sydney”, “… of Bangkok”…, kể ra làm sao cho hết!
Dễ hiểu hơn là loạt “game show” nổi tiếng khắp thế giới như “Got Talent” thì có đến hàng trăm “show” cùng mang tên bản quyền như “America’s Got Talent”, “Britain’s Got Talent”, “Thailand’s Got Talent”, và dĩ nhiên “Vietnam’s Got Talent”…., tất cả đều phải mua bản quyền cuả tác giả là anh Simon Cowell cuả nước Anh, đã sáng chế ra thể loại “game show” này…, rồi mô phỏng thành Việt nam!!!
Có điều đáng nói là khán giả xem thì cứ tưởng đây là những sáng tác do Việt nam làm ra, coi như "Made in Vietnam"!!!
Trong những năm đầu sang định cư ở Mỹ, bản thân tôi cũng thường xuyên xem và thưởng thức những “hồi” Jeopardy, thi đố có thưởng, cuả anh chàng Mỹ gốc Canada tên là “Alex Trebek” hay những hồi “Wheel of Fortune” do cặp đôi Pat Sajak và Vanna White điều khiển…
Tóm lại, tôi thấy hình như hầu hết các chương trình truyền hình (game show) ăn khách cuả Việt Nam ngày nay, cũng là mua bản quyền cuả những chưong trình quốc tế đã có sẵn, như thi đố có thưởng, tuyển lưạ tài năng, mà bản thân tôi, già rồi thì cũng đã … chán ngấy những TV show loại đó rồi, nên không thích nhắc đến “chúng” nưã!
Trở lại cái gọi là phim “The Real Housewives of Beverly Hills”, xin nói thêm : đây không thể là phim xem để học tiếng Anh, nên xem làm chi, bàn làm chi cho tốn thì giờ!